Ai tinh bí quyết chân truyền
Đây là ai tinh bí quyết ứng dụng huyền không của gia truyền nay công bố ra, được bởi Dương Quân Tùng tiên sư sở truyền thụ đích ai tinh bí quyết, khởi đầu câu thu lục ở 《 Thanh nang áo ngữ 》 nội:
Khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất.
Cấn bính tân vị vị thị phá quân.
Tốn thìn hợi họa thị vũ khúc vị.
Giáp quý thân tham lang nhất lộ hành.
Thế này đoạn câu ngữ trải qua về sau rất nhiều phái tranh nghị, mà hiện tại rất làm thịnh hành đích 《 Thẩm họ huyền không học 》 nguyên nhân sao tinh bàn tổ hợp thiếu, mà không thể tự viên ngoài thuyết, liền đem thế này câu sửa làm cái gọi là kiêm hướng khẩu quyết, còn thuyết thành do Tưởng đại hồng truyền thụ khương nhữ cao.
Kinh nghiệm chứng cớ sau, phát hiện do kiêm hướng khởi xuất đích phi tinh vận bàn thực khó có thể chân chính đoán ra trạch nội sự tình, có được nhiều là xuyên tạc phụ hội, dùng nhiều hạt phi tinh ngạnh nhấc lên thực so sánh.
Bởi vậy có thể thấy, đọc này tất nên phải cẩn thận vận dụng 《 Thẩm họ huyền không học 》nội ghi chép đích phương pháp, lấy trung tâm lập của biện chính phương pháp liền có phát hiện ngoài phá lậu đầy rẫy đích rõ hiện tượng.
Phụ lục 《 Thẩm họ huyền không học 》 của ai tinh kiêm hướng khẩu quyết các cung vị chứng minh:
〈 xuy ngao tử giản dịch ai tinh khẩu quyết 〉
Tý quý giáp thân tham lang tầm; Khôn nhâm ất mão mùi cự môn.
Kiền tốn lục vị đều vũ khúc; Cấn bính tân dậu sửu phá quân.
Nếu tra dần ngọ canh đinh thượng; Một luật hoán lại là bật tinh.
〈 Tưởng đại hồng truyền thụ khương nhữ nghiệt khẩu quyết 〉
Tý quý tịnh giáp thân, tham lang nhất lộ hành.
Nhâm mão ất mùi khôn, ngũ vị thị cự môn.
Kiền hợi thìn tốn tị, tốc thành vũ khúc danh.
Dậu tân sửu cấn bính, thiên tinh thuyết phá quân.
Dần ngọ canh đinh thượng, hữu bật tứ tinh lâm.
Trải qua về sau rất nhiều khổ tâm toàn nghiên đích phong thủy nghiên cứu này, như không được minh sư khẩu truyền tâm truyền thụ, đều rơi vào chỉ biết ngoài đạo lý, khước sấm không tiến chân chính ứng dụng đích môn hạm.
Ngoài khẩu quyết thừa ra lấy hai mươi bốn sơn làm bao trang thức, chỉ thực tế lấy sáu mươi tứ quái làm dùng, nếu không rõ thế này điểm, rất dễ dàng lại ngã tiến cửu cung phi tinh cùng Thẩm họ huyền không học đích khoanh tròn.
Ngoài ra khẩu quyết này với huyền không đại quái lại áp dụng phân đại môn xéo(thế quái) để tiếp nhận được cát khí như đồ hình 48 sau. Bằng áp dụng khẩu quyết ai tinh trên, qua nạp giáp định lai khứ thủy (thủy pháp) để kích hoạt ai tinh bí quyết ……
Chúng ta cứ nghĩ xem một khẩu quyết quý như thế này mà Thẩm họ huyền không học chỉ đem áp dụng trên la kinh phân thế quái cho các trường hợp gần biên phân chia 24 sơn trên la kinh, vì Thẩm họ không được chân truyền cách ứng dụng phân thế quái khẩu quyết Ai tinh bí quyết bởi Dương quân Tùng. Một khẩu quyết như vậy mà chỉ áp dụng đơn thuần một số trường hợp như Thẩm họ, thuyết nghĩ nó phải áp dụng được trong mọi trường hợp mới xứng với cái danh Dương cứu bần.
Chú ý: về nạp giáp thuộc biến hào thủy pháp.
Không phải cách nạp giáp này: (Càn nạp Nhâm Giáp, Khôn nạp Quý Ất, Chấn nạp Canh, Tốn nạp Tân, Khảm nạp Mậu, Li nạp Kỷ, Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh, dương can nạp dương quái, âm can nạp âm quái.)
Hình ứng dụng thủy pháp của ai tinh bí quyết …
Hình bình thường
(Cả hai hình cùng chung khu đất)
Trước khi viết Nam Phong đã cân nhắc nhiều lần vì nó chạm đến gốc rễ của Huyền không phi tinh mà mọi người vẫn biết và vẫn dùng. Tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật và vì mong muốn các bạn có cơ duyên sẽ có một cách nhìn khác với Huyền không phi tinh và có thể tiếp cận với mức thượng thừa của Phi tinh nên quyết định viết bài này. Bài này chỉ là một phần của Huyền không phi tinh Tiên thiên pháp nhưng nó cho thấy sự lợi hại của Tiên-Hậu thiên phối hợp như thế nào.
Nói về Huyền không phi tinh, phần lớn chỉ biết về Hậu thiên phi tinh, tức là cách bài tinh bàn(an tinh pháp) được một trong các cách cục: vượng sơn vượng hướng, song tinh đáo hướng, song tinh đáo sơn, thượng sơn hạ thuỷ…
Tiên thiên pháp của Huyền không phi tinh được các chân sư giữ gìn rất cẩn mật. Cho đến nay vẫn chỉ rất ít người biết được Tâm pháp này; Nếu bài được vượng sơn vượng hướng(hậu thiên cát) mà không biết được rằng tiên thiên hung thì tạm thời trước mắt cát nhưng chung quy vẫn bại, cái cát đó chỉ là tạm thời chứ không thể dài lâu. Như tiên thiên cát mà hậu thiên hung(bài thượng sơn hạ thuỷ cục) thì trước mắt cục diện này có thể không dùng được nhưng lâu dài vẫn dùng tốt như thường. Âm dương 2 trạch trước hết phải quán xét Tiên thiên ai tinh pháp cát hay hung, sau đó mới dụng hậu thiên ai tinh pháp(bài tinh bàn) hợp dụng. Kinh văn viết: “hữu nhân thức đắc ai tinh học, triều thị phàm phu mộ thị tiên”.
Tưởng Công truyền ai tinh khẩu quyết như sau:
Tý Quý tịnh Giáp Thân,
Tham lang nhất lộ hành.
Nhâm Mão Ất Mùi Khôn,
ngũ vị vi Cự môn .
Càn Hợi Thìn Tốn Tị,
liên Tuất Vũ khúc danh.
Dậu Tân Sửu Cấn Bính,
thiên tinh thuyết Phá quân.
Dần Ngọ Canh Đinh thượng,
Hữu bật tứ tinh lâm.
bản sơn tinh tác chủ,
phiên hướng trục hào hành.
Liêm trinh quy ngũ vị,
chư tinh thuận nghịch luân.
Cát hung tuỳ thời chuyển,
Tham Phụ bất đồng luận.
canh hữu tiên hiền quyết,
không vị kị lưu thần.
phiên hướng phi lâm Bính,
thuỷ khẩu bất nghi Đinh.
vận thế tinh bất cát,
hoạ khởi chí diệt môn.
vận vượng tinh canh hợp,
bách phúc hựu thiên trinh .
suy vượng đa bằng thuỷ,
quyền hành dã tại tinh.
thuỷ kiêm tinh canh đoán,
diệu dụng hứa thông linh .
Hiện nay đa số mọi người xem Ai tinh quyết này chính là Thế tinh quyết. Do xuất phát từ bút ký của Khương Diêu: “Lúc thầy tôi táng cha ở Dư Diêu không có tiền mua đất, tôi dâng cho thầy 2000 lượng vàng, khi trở về thì thầy giữ lại, truyền cho tôi 28 câu khẩu quyết tý quí và giáp thân. Lúc ấy tôi mới biết “Tý Quý Giáp Thân là sao Tham lang, Nhâm Mão Ất Mùi Khôn là sao Cự môn, Thìn Tuất Kiền Hợi Tốn Tị là sao Vũ, Dậu Tân Sửu Cấn Bính là sao Phá quân, Ngọ Đinh Dần Canh là sao Hữu bật. Thầy tôi trang nghiêm khuyến cáo: “Bí quyết trong sách này là điều bí mật nhất trong những điều bí mật, một khi con đã biết thì nên thận trọng chớ có tiết lộ cho ai”. Sau khi tôi được khẩu quyết mới mang ra chú giải Thanh nang áo ngữ.”. Từ bút ký này và những lời giải thích của Khương Diêu nên mọi người xem đây là Thế tinh trong trường hợp kiêm quá 3 độ(với Vô Thường phái) hoặc 4,5 độ(Trung Châu phái).
Nếu chỉ đơn giản là Thế tinh thì nó cũng không quan trọng đến mức Tưởng Đại Hồng phải đinh ninh “
Bí quyết trong sách này là điều bí mật nhất trong những điều bí mật, một khi con đã biết thì nên thận trọng chớ có tiết lộ cho ai”. Vì thật ra thế quái đâu quan trọng bằng Hạ quái hay Thành môn mà Tưởng Công cần giữ bí mật đến như vậy? Lời của Tưởng Công thực sự có ẩn ý, tiếc rằng Khương Diêu không hiểu thấu, nếu chỉ là thế quái thì Tưởng Công chỉ cần nói ra 13 sơn thế, 11 sơn còn lại không thế thì đâu cần nói chi? vả lại còn nguyên một phần sau của ca quyết hoàn toàn không được giải thích là dùng để làm gì. Tưởng Công giữ gần một đời ca quyết này chẳng lẽ những câu cuối chỉ để có cho vui? Tưởng Công nói “Thế” tức Tiên thiên thế Hậu thiên mà định cát hung chứ không phải thế tinh.Chân sư Huyền không phi tinh mấy trăm năm nay không ai cải chính những điều này. Bút ký của Khương Diêu và Thẩm thị huyền không học là công thần hay tội nhân phong thuỷ?
Tiên thiên Long-Thuỷ Ai tinh pháp phân biệt rõ Lai long và Thuỷ khẩu ở tại từng cung vị, y ai tinh quyết án dương thuận âm nghịch phép tắc mà bài. Ai tinh lưu hành theo vòng chu thiên, Liêm trinh(sao 5) nhập trung. Xem tứ cát tứ hung lâm tại cung vị nào, thẩm nhập huyệt tinh là vượng hay suy, hợp lại mà dùng.
Lấy một ví dụ cho rõ:
Lai long đến từ Hợi, thuỷ khẩu ở Mão Ất phương, hạ nguyên lập trạch Quý sơn Đinh hướng:
Lai long hợi, đối chiếu ai tinh quyết Hợi là Vũ khúc, Hợi là quẻ sơ hào của Đoài thuộc dương(xem Huyền không phi tinh định 24 sơn âm dương), thuận hành ai tinh: Càn(tuất càn hợi)-Vũ khúc; Khảm(nhâm tý quý)-Phá quân; Cấn(sửu cấn dần)- Tả phụ; Chấn(giáp mão ất)-Hữu bật; Tốn(thìn tốn tị)-Tham lang; Ly(bính ngọ đinh)-Cự môn; Khôn(mùi khôn thân)-Lộc tồn; Đoài(canh dậu tân)-Văn khúc; Liêm trinh quy trung ngũ(Liêm trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận nghịch luân.)
tham—–cự——-lộc
tị——–đinh—–thân
bật——liêm—–văn
ất——-trung—–tân
phụ—–phá——-vũ
dần—–quý——-hợi(lai long)
Quý sơn đắc phá quân đáo toạ trạch. Phá quân thất xích là hạ nguyên đương lệnh chi tinh chủ tốc phát.
Đinh hướng Cự môn, Cự môn nhị hắc là thượng nguyên chính thần, hạ nguyên linh thần; linh thần đến hướng, nếu có thuỷ triều thì hạ nguyên chủ cát, đó là Linh Chính đắc vị(chính thần sơn phi đáo sơn, linh thần thuỷ phi đáo hướng).
Thuỷ khẩu Ất Mão, đối chiếu ai tinh quyết Ất Mão là Cự môn, Ất Mão thuộc trung hào và thượng hào quẻ Cấn nên thuộc âm(xem Huyền không phi tinh 24 sơn âm dương), do đó tại chấn khởi Cự môn nghịch ai, Hữu bật đến đinh hướng.
tham——–bật———-phụ
tị————đinh———thân
cự———–liêm———phá
ất———-trung———tân
(thuỷ khẩu)
lộc———-văn———-vũ
dần———quý———-hợi
Hữu bật cửu tử thuộc hướng thuỷ hạ nguyên chính thần, đương lệnh hợp thời, nên cục thế đại cát tài lộc.
Văn khúc tứ lục đáo toạ sơn, văn khúc là thượng nguyên long, thượng nguyên dùng tốt, hạ nguyên suy.
Đây chính là Tiên thiên Long-Thuỷ Ai tinh pháp “lấy lai long thẩm toạ sơn”, “lấy thuỷ khẩu thẩm hướng” chi pháp, hợp “long hợp hướng, hướng hợp thuỷ” bí chỉ, xác định Long-Hướng-Thuỷ Tam hợp đương dụng.
Thuỷ khẩu ở Mão Ất phương, Mão Ất thuộc Chấn tam bích quái, mà Hợi long tại Càn lục quái, Đinh hướng triều thuỷ thuộc Li cửu tử quái, đây chính là Tam Lục Cửu “Phụ mẫu tam ban quái” chân quyết. Toạ sơn hướng thuỷ lại hợp Khảm Li giao cấu cục, chính là phúc địa vậy.
Đồ hình kết hợp với Bài long quyết và An tinh quyết Quý sơn Đinh hướng vận 7
– 3 số trong vòng tròn định Phụ mẫu tam ban cục
– Ngoài vòng tròn, vòng đầu tiên là phương vị hậu thiên
– Vòng thứ 2 là Tiên thiên Long Ai tinh pháp
– Vòng thứ 3 là Tiên thiên Thuỷ Ai tinh pháp
– Vòng ngoài cùng 3 số là tinh bàn vận 7 Quý sơn Đinh hướng
– Trên cùng ở cung Ly ghi Phá quân long là Bài long pháp, lấy Ất Mão thuỷ khẩu, Phá quân đến hướng.
Phần hợp đoán để dành cho các bạn.
Phép dùng An tinh của Hậu thiên là theo Lường thiên xích Lạc thư, nhưng căn cơ chính là thuận bài “dương trưởng âm tiêu”, nghịch bài “âm trưởng dương tiêu”(xem Huyền không phi tinh Lường thiên xích tường giải).
Phép dùng An tinh của Tiên thiên lại theo chu thiên quái hào, dương một đường, âm một đường, “cửu tinh song khởi thư hùng dị, huyền quan chân diệu xứ”.
“Liêm trinh quy ngũ vị,
chư tinh thuận nghịch luân.”
An đến sao Liêm trinh(ngũ hoàng) thì nhập trung cung, sao Liêm trinh quản trung cung, 8 sao còn lại phân bố 8 cung.
“Cát hung tuỳ thời chuyển,
Tham Phụ bất đồng luận.”
Thượng nguyên Tham Cự Lộc Văn cát, Vũ Phá Phụ Bật hung. Hạ nguyên Vũ Phá Phụ Bật cát, Tham Cự Lộc Văn hung. Nói cát hung tuỳ thời chuyển là như vậy.
“canh hữu tiên hiền quyết,
không vị kị lưu thần.
phiên hướng phi lâm Bính,
thuỷ khẩu bất nghi Đinh.”
Tức là nói thượng nguyên long lại gặp hạ nguyên thuỷ, bất giao bất hợp thì chung cuộc chỉ là hung.
“vận thế tinh bất cát,
hoạ khởi chí diệt môn.
vận vượng tinh canh hợp,
bách phúc hựu thiên trinh.”
Thượng nguyên bài đắc hạ nguyên tinh, hạ nguyên bài đắc thượng nguyên tinh là hoạ diệt môn, ngược lại là hợp nguyên hợp tinh nên là phúc.
“suy vượng đa bằng thuỷ,
quyền hành dã tại tinh.
thuỷ kiêm tinh canh đoán,
diệu dụng hứa thông linh .”
Lưu ý quyết dùng cho vùng Bình nguyên, Bình dương mà không dùng được cho vùng Sơn cốc, nơi có thuỷ mới nghiệm, vô thuỷ không nghiệm.
Các phái khác từng cho Huyền không phi tinh là sai vì chỉ đề cập Hậu thiên mà không có nói gì đến Tiên thiên. Sự thực Huyền không phi tinh như thế nào, đến nay chắc chỉ vài người hiểu mà thôi. Cao thủ phi tinh thực có mấy ai?
Nam Phong.
Phiên âm qua tiếng việt đoạn văn ở trên. Đọc xong ngọng luôn, hong hiêu gì hết
乙 卯 龙 癸 山 丁 向,
Ất mão long quý sơn đinh hướng, 水 出 申 庚, 发 丁 财.
thủy xuất thân canh, phát đinh tài.坐 癸 向 丁, 周 天17度。
Tọa quý hướng đinh, chu thiên 17 độ. 乙 卯 来 龙, 周 天103 度。
Ất mão lai long, chu thiên 103 độ. 乙 辰 来 水, 周 天108 度。
Ất thìn lai thủy, chu thiên108 độ.
水 口 申 庚, 周 天 245 度。
Thủy khẩu thân canh, chu thiên 245 độ. 水 口 砂 申, 周 天 245 度。
Thủy khẩu sa thân, chu thiên 245 độ. 朝 山 午 丁, 周 天186 度。
Triêu sơn ngọ đinh, chu thiên186 độ. 案 山 丙 午, 周 天170 度。
Án sơn bính ngọ, chu thiên170 độ. 穴 山 艮 寅, 周 天50 度。
Huyệt sơn cấn dần, chu thiên 50 độ. 父 母 山 寅 甲, 周 天65 度。
Phụ mẫu sơn dần giáp, chu thiên 65 độ.
99 年 迁 葬。 下 葬 的 头 天 晚 上, 我 一 个 亲 人 梦 见 下 面 的 河 流 涨 很 大 的 洪 水, 我 就 知 道 这 是 吉 兆, 主 财 运。 坐 癸
向 丁, 周 天17 度, 第 一 张 图 上 有。
99 niên thiên táng. Hạ táng đích đầu thiên vãn thượng, ngã nhất cá thân nhân mộng kiến hạ diện đích hà lưu trướng ngận đại đích hồng thủy, ngã tựu tri đạo giá thị cát triệu, chủ tài vận. Tọa quý hướng đinh, chu thiên 17 độ, đệ nhất trương đồ thượng hữu.
能看到。葬后丁财两旺。
Năng khán đáo. táng hậu đinh tài lưỡng vượng.
更 正: 是1999 年 迁 葬, 墓 碑 上 的 度 数18 度 是 2004 年 用 罗 盘 测 得。 后 用 指 南 针 测 得 度 数 是17 度。17 度 比 较 准
Canh chánh: thị 1999 niên thiên táng, mộ bi thượng đích độ sổ18 độ thị 2004 niên dụng la bàn trắc đắc. Hậu dụng chỉ nam châm trắc đắc độ sổ thị 17 độ.17 độ bỉ giác chuẩn.
这 峦 头 并 不 完 美,缺 点 确 实 不 少。 但 关 键 是 龙 向 配 合 不 犯 煞, 水 口 走 申 庚, 绝 妙!
Giá loan đầu tịnh bất hoàn mĩ, khuyết điểm xác thật bất thiểu. Đãn quan kiện thị long hướng phối hợp bất phạm sát, thủy khẩu tẩu thân canh, tuyệt diệu!
做 这 坟 确 实 是 为 了救 贫, 是 救 贫 黄 泉 ,丁 坤 终 是 万 斯 箱. 从 现 在 看 来, 救 贫 的 目 的 已 经 达 到
Tố giá phần xác thật thị vi liễu cứu bần, thị cứu bần hoàng tuyền, đinh khôn chung thị vạn tư tương.tòng hiện tại khán lai, cứu bần đích mục đích dĩ kinh đạt đáo.
苏 说 的 丁 向 坤 走 水, 砸 墓 碑 的 都 有,这 我 相 信。 但 风 水 不 能 这 么 一 概 而 论。 因 为 还 有 龙 的 不 同, 龙 的 配 合, 假 如 不 是 乙 龙, 而 是 甲 龙, 就 会 有 天 差 地 别! 假 如 不 是 乙 卯 龙, 而 是 乙 辰 龙, 也 有 天 差 地 别!假 如 乙 卯 龙 不 立 丁 未 向, 而 是 立 的 丁 午 向, 也 有 天 差 地 别!
Tô thuyết đích đinh hướng khôn tẩu thủy, tạp mộ bi đích đô hữu, giá ngã tương tín. Đãn phong thủy bất năng giá yêu nhất khái nhi luận. Nhân vi hoàn hữu long đích bất đồng, long đích phối hợp, giả như bất thị ất long, nhi thị giáp long, tựu hội hữu thiên sai địa biệt! Giả như bất thị ất mão long, nhi thị ất thìn long, dã hữu thiên sai địa biệt!Giả như ất mão long bất lập đinh vị hướng, nhi thị lập đích đinh ngọ hướng, dã hữu thiên sai địa biệt!
在 我 坟 旁 边 有 左 右 二 坟, 立 的 丁 午 向 , 皆 不 吉, 一 家 后 人 赌 博 吸 毒。 一 家 后 人 犯 桃 花, 寿 命 不 长。 真 是 赵 连 城 说 的 左 葬 左 绝, 右 葬 右 绝。 也 是 杨 公 说 的, 唯 有 一 坟 能 发 福, 来 山 去 水 尽 合 情。 该 山 葬 十 几 口 坟, 其 它 的 坟 后 人 都 较 贫。
Tại ngã phần bàng biên hữu tả hữu nhị phần, lập đích đinh ngọ hướng, giai bất cát, nhất gia hậu nhân đổ bác hấp độc. Nhất gia hậu nhân phạm đào hoa, thọ mệnh bất trường. Chân thị triệu liên thành thuyết đích tả táng tả tuyệt, hữu táng hữu tuyệt. Dã thị dương công thuyết đích, duy hữu nhất phần năng phát phúc, lai sơn khứ thủy tẫn hợp tình. Cai sơn táng thập kỉ khẩu phần, kì tha đích phần hậu nhân đô giác bần.
Chào anh TuHepLuong,
Nôm na là như vầy:
Long tới từ ất sơn kiêm mão (103 độ)
Lập quý sơn đinh hướng (17 độ)
Thủy khẩu tại thân kiêm canh 245 độ
Cục này phát đinh lẫn tài .
Tôi thu tập các cục đầy đủ các yếu tố long thủy tọa hướng kết quả để kiểm nghiệm thuyết của NamPhong.
Tiệm bán cá, tọa ngọ kiêm đinh (181.5 độ) thủy khẩu giáp kiêm mão. Khai trương năm 2005.
Sau khi mở bán được vài tháng đắc khách, sau đó ế dần rồi phải sang cho chủ khác, thay đổi chủ rất nhiều lần …
Chào anh Lypm,
Cám ơn anh chỉ điêm. Nhưng tôi lại thắc mắc tại sao Quý sơn Đinh hướng 17 độ mà không phaỉ toạ Đinh hướng Quý?
Lai long Ất Mão 103 độ phân 2 nhánh: 1 nhánh tả toàn thành án sơn tại Bính Ngọ 170 độ và sơn triều tại Ngọ Đinh 186 độ; 1 nhánh hữu toàn thành đại sơn tại Giáp Dần 65 độ và nhập huyệt sơn tại Dần Cấn 50 độ. Thuỷ đến từ Ất Thìn 108 độ tả toàn xuất thuỷ khẩu tại Thân Canh 245 độ. Đây là lưỡng sơn hiệp nhất thuỷ. Chính vì vậy lai long không thể lấy ở Mão Ất vì nơi đây không thực là lai long do không có sơn khởi đỉnh và lại bị phân hành. Long tại Mão Ất phân hai: tại Giáp Dần và Bính Ngọ, thuỷ theo Bính Ngọ nhưng Bính Ngọ không phải chân long vì sơn đột triều tại Ngọ Đinh, triều về Dần Giáp hộ chân long. Chân long ở tại Dần Giáp vì lai long khởi đỉnh ở Dần Giáp(hậu thiên lai long Chấn quái), nhập huyệt tại Cấn Dần(tiên thiên Chấn quái), đối cung Thân Canh thuỷ khẩu là Kim long(tiên thiên thuỷ khẩu tại Tốn quái). Quẻ Lôi phong, động sơ hào thành Càn Khôn đại dụng(cái đoạn này là nghiệm theo Nguyên không để xem Kim long động hay bất động mà quyết cát hung trước)
Xét Dần Giáp 65 độ ai tinh tại Dần là Hữu bật thuận hành thì Lộc đến Đinh hướng, Phụ đến Quý sơn. Tại Giáp là Tham lang thuận hành thì Lộc đến Đinh hướng, Phụ đến Quý sơn.
Cự——–Lộc———-Văn
Tham—-Liêm——–Vũ
(thuỷ khẩu)
Bật——-Phụ———Phá
Quý sơn đắc Phụ tinh đáo toạ trạch. Phụ tinh bát bạch là hạ nguyên cát tinh, chủ tốc phát.
Đinh hướng Lộc tồn tam bích là thượng nguyên chính thần, hạ nguyên linh thần; linh thần đến hướng, nếu có thuỷ triều thì hạ nguyên chủ cát, đó là Linh Chính đắc vị(chính thần sơn phi đáo sơn, linh thần thuỷ phi đáo hướng). Ở đây thuỷ từ Ất thìn vòng qua Ngọ Đinh và xuất tại Thân Canh và có cả sơn triều tại Ngọ Đinh nên Linh thần thuỷ này thực không đắc vị cho lắm nhưng cũng không phải hung.
Xét thuỷ khẩu tại Thân Canh 245 độ, Ai tinh tại Thân là Tham lang thuận bài thì Văn khúc đến Quý sơn, Hữu bật đến Đinh hướng. Ai tinh tại Canh là Hữu bật thuận bài thì Cự môn đến Quý sơn, Phá quân đến Đinh hướng.
Phá quân thất xích, Hữu bật cửu tử thuộc hướng thuỷ hạ nguyên chính thần, đương lệnh hợp thời, nên cục thế đại cát tài lộc.
Bài long lấy Thân làm chủ thì Cự môn long đến hướng, lấy Canh làm chủ thì Liêm trinh đến hướng, tuy Liêm trinh hung nhưng vận 7, 8 đều là Cự môn chủ chính nên Liêm trinh sinh cho Cự môn mà hoá cát, vận 9 hung.
An tinh bàn Quý sơn Đinh hướng vận 7
461—-826—-648
559—-372—-194
915—-737—-283
Thuỷ khẩu tại Thân đắc hướng tinh 8, sơn triều tại Ngọ Đinh đắc sơn tinh 8.
Cục này phát mạnh trong vận 7 kéo dài đến hết vận 8 mới thôi. Con gái học cực giỏi, con trai bình thường.
Hơi tiếc một điều là táng trong vận 7, nếu táng trong vận 8 song tinh 8 đáo hướng, hướng tinh 8 tại Ly, hướng tinh 6 tại Khôn, hướng tinh 1 tại Dậu toàn thu thuỷ. Vận 8 sơn Cấn 8, thuỷ khẩu Khôn 2, lập chính cục Khảm Ly Quý sơn Đinh hướng 20 độ Càn Khôn đại dụng thì có thể thành Tam nguyên bất bại đại cục.
2.
Tiệm bán cá, tọa ngọ kiêm đinh (181.5 độ) thủy khẩu giáp kiêm mão. Khai trương năm 2005.
Thuỷ khẩu tại Giáp khởi Tham lang thuận bài:
Cự——–Lộc—–Văn
Tham—-Liêm—-Vũ
Bật——-Phụ—–Phá
Thuỷ khẩu tại Mão khởi Cự môn nghịch bài:
Tham–Bật—–Phụ
Cự——Liêm—Phá
Lộc—–Văn—-Vũ
Âm dương bất đồng, cát hung lẫn lộn. Nhà này phải có cửa sau để hỗ trợ khí cho cửa trước. Cửa chính ở trước phải mở thật lớn, càng lớn càng tốt và ở giữa. Nếu mở một bên hay nhỏ thì không thể thu sơn xuất sát, đại bại tài lộc, 2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người.
2 Cục này 1 âm trạch, 1 dương trạch, có nhiều điểm tương đồng nhưng xét kỹ lại thì thuỷ khác rất nhiều nên vượng suy khác nhau và do hợp phép thu sơn xuất sát hay không(không phải thu sơn xuất sát của Thẩm thị huyền không mà là của Trung Châu huyền không), cái này thì lại khó kiểm chứng được. Phần luận trên đây cũng là dựa theo mô tả, khi gặp trực tiếp đôi khi có những điều tưởng nhỏ nhặt mà lại hoá ra thay đổi toàn bộ cục diện, nhất là trong âm trạch.
P/S: anh Lypm, Nam Phong không học về trận pháp vì biết mình không tiếp nhận nổi kiến thức Kỳ môn(Kỳ môn này là Âm phù kinh chứ không phải Kỳ môn độn giáp mọi người hay nói) nên không giúp gì anh được.
Phần ví dụ 1 Nam Phong đã kiểm chứng lại với thuyết Nguyên không cũng phù hợp như vậy, cảm ơn anh Lypm đã cho một ví dụ rất cụ thể.
Cục thứ hai thì không phải ví dụ tốt tại vì thủy khẩu không có độ số, theo cách viết của người này thì kiêm một độ cũng gọi là kiêm cho nên có thể toàn là giáp cũng có thể giáp kiêm mão. (Tôi lại thắc mắc sao lại nói lộc bật mà hong nói phụ văn ? không phải dụng long sát tọa, dụng thủy sát hướng à ?)
Cảm ơn bạn mommom đã bổ sung hình. Tiệm bán cá này độ số rất tốt, thuỷ khẩu tại Mão cũng hay. Bạn đưa hình lên cái cửa chính ở phương Sửu(hình cuối), bài trên NP có viết Cửa chính ở trước phải mở thật lớn, càng lớn càng tốt và ở giữa. Nếu mở một bên hay nhỏ thì không thể thu sơn xuất sát, đại bại tài lộc, 2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người.
anh Lypm: cục thế thứ nhất không phải vì thuỷ khẩu tại Thân mà NP nói lai long ở Cấn Dần, nếu nói như vậy thì chẳng hiểu gì về Long Thuỷ cả. NP nói lai long ở Cấn Dần do thấy thế thuỷ thuận hành, sơn nghịch hành đúng thư hùng giao cấu trước khi hình thành huyệt tinh. Nếu Lai long thực sự tại Mão Ất thì với cục diện này vận 7 lập huyệt toạ Thân hướng Dần 63độ, đầu gối lên nước, mắt nhìn núi cao, hồi phong chuyển khí, kiêm thâu sinh vượng cả hạ nguyên. Con cháu tài lộc-quyền uy một xứ. Nếu người lập huyệt là cao thủ thực sự mà lai long Mão Ất lại lập Quý Đinh chỉ có 1 trong 2 lý do(hoặc người đưa cục thế này lên là cao thủ và đã cảm thấy không bình thường):
1. Thuỷ khẩu tại Thân Canh rất đặt biệt.
2. Người lập huyệt hiểu được phúc nhà này không thể đương nổi cục thế nên không nhận đại cục ở Cấn-Trung-Khôn(258) mà chỉ thu tiểu cục ở Khảm-Tốn-Đoài(147), giảm đi 7 phần, chỉ cho nhận 3 để bình an cho nhân đinh.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là ước đoán mà thôi, nếu có điều kiện xem ảnh cục diện thì mới có thể biết chính xác hơn.
lão tà
NamPhong:
2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người. |
Câu này làm tôi thắc mắc các trường hợp sau.
Theo như cách lập long bàn và thủy bàn thì thủy chung mỗi bàn chỉ có hai cách cục, đó là tọa vượng thì hướng suy và hướng vượng thì tọa suy. Không thể có cả hai tọa hướng đều vượng hay đều suy. Vượng là nói tinh vào nguyên, suy là nói tinh thoát nguyên. Nếu nói về long bàn thì tọa vượng hướng suy là tốt, ngược lại là xấu; nếu nói về thủy bàn thì hướng vượng tọa suy là tốt, ngược lại là xấu.
Vậy có các trường hợp sau đây thì phải luận làm sao:
1. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy.
2. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng
3. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng
4. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy
Gió Nam đáp
1. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy. Tương đương cùng vượng sơn vượng hướng, nhưng chia nhiều mức vượng hơn.
2. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng. Tương đương thượng sơn hạ thuỷ, nhưng chia nhiều mức suy hơn.
3. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng. Tương đương song tinh đáo toạ, nhưng chia nhiều mức hơn, muốn hướng vượng thì tìm sao thuỷ bàn hợp hà đồ số với sao thuỷ tại toạ mà thôi thuỷ.
4. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy. Tương đương song tinh đáo hướng, nhưng chia nhiều mức hơn, muốn toạ vượng thì dùng bổ long phù sơn theo ngũ hành.
Long Thuỷ pháp này NP đang kiểm nghiệm và đối chiếu với các phép khác, cần nhiều thời gian hơn mới có kết luận.
Chào các bác
Theo tôi hiểu thì đã có thuỷ khẩu ắt phải có long, có long ắt có thuỷ khẩu. Các cụ xưa có hai cách để xác định là theo long hành để tìm thuỷ khẩu, còn miền bình dương thì long tàng ẩn nên dựa vào thuỷ khẩu để biết long, việc này trên thực tế rất khó xác định , chỉ những ai có kinh nghiệm mới tinh mắt thấy được, nhất là thời nay long thuỷ đã biến dạng, bị con người vô tình hay cố ý phá hoại.
Còn khi đã xác định được rồi tức là phải biết vị trí đich huyệt ở đâu ( việc này đã biết được thuỷ khẩu đương nhiên là phải đứng từ huyệt đo ra )
còn để lập hướng tôi vẫn thích dùng theo tam hợp , điển hình của Cụ Tả Ao .
Chào Diennien,
Chính xác là không có thủy khẩu thì không có Long mạch kết! Đây là nói Thành Môn thủy khẩu hay thủy khẩu của Long hữu hình.
Kim long Thủy khẩu thì lại là thủy khẩu của long vô hình, Thủy khẩu này xác định dựa vào Kim Long. Kim long biến theo vận do vậy Kim long thủy khẩu cũng biến theo vận. Kim long là nơi chí dương ứng với quẻ Càn là nghĩa Linh chính của nguyên vận. Dịch nói “cùng tất biến” do vậy chí dương chợt biến sinh âm chính là Kim long thủy khẩu. “Biến” thì có trên dưới, trái phải…
Hai nghĩa thủy khẩu này cũng không thoát được cái lý Thư Hùng của Dương Công!
Kinh nghiệm cho thấy hầu hết các cuộc đất tốt Thành môn thủy khẩu “Trùng” với Kim long thủy khẩu và tương ứng lạ kỳ. Trước lúc nước ra khỏi thủy khẩu dù có chảy mạnh thế nào cùng “dừng” tại đây rồi mới giao thoa với dòng nước khác, len lỏi qua Bắc thần, Hoa biểu, Cầm tinh, La tinh … mà đi. Chỗ dừng này bao giờ cũng tương ứng với Minh đường, Án, Triều… ( Chu tước Phát nguyên sinh vượng khí). Những cuộc đất này chỉ chờ thời Kim long tới là vượng phát, tất nhiên đây chỉ nói sơ lược thôi…
Trên đây là kinh nghiệm của ASVN rút ra từ việc quan sát thực tế ứng nghiệm.
Các bài viết trên blog được mình sưu tầm, tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều bài viết không tìm lại được tác giả, nếu có bất cứ thắc mắc, khiếu lại về bản quyền bài viết vui lòng liên hệ với mình theo số ĐT: 0909399961 , mình rất vui được tiếp nhận các thông tin phản hồi từ các bạn
Chi tiết về dịch vụ xin liên hệ:
CÔNG TY TNHH ĐỊNH GIÁ BẾN THÀNH – HÀ NỘI.
Trụ sở chính: Số 236 đường Cao Thắng, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Văn phòng: 781/C2 Lê Hồng Phong, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Mã số thuế: 0314521370.
Điện thoại: 0909399961Email: [email protected].
Website: //thamdinh.com.vn
Thẩm định giá bất động sản
Thẩm định giá động Sản
Thẩm định giá máy móc thiết bị
Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định giá tri doanh nghiệp
Thẩm Định Giá tài sản vô hình
Thẩm định giá dự toán gói thầu
Thẩm Định Giá Dự toán, dự án xây dựng
Thẩm định giá trang thiết bị y tế
Thẩm định giá Xử lý nợ
Thẩm định giá nhà xưởng
Thẩm định giá đầu tư
Thẩm định giá tài chính định cư
Thẩm định giá tài chính du lịch
Thẩm định giá tài chính du học