Bài 24-Phần cơ bản

MỆNH TRẠCH TRONG BÁT TRẠCH LẠC VIỆT

I. CÀN MẠNG ĐỊNH CỤC

Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:Sau đây nói về đại cuộc, mỗi việc làm mỗi người, do định luật sanh – hạp hoặc xung khắc của ngũ hành mà ra. Mạng Càn được nói đầy đủ hơn, nên nhận xét kỹ mạng Càn để đoán các cung khác cho đầy đủ.

CÀN MẠNG.
Phạm Đông phương ngủ quỷ. Như Táo – hướng dữ lai lộ phạm chi, trưởng tử nan chiêu hậu hửu, nhị tử.
Phạm Bắc phương Lục sát, thương trung tử nhi hửu nhứt tử.
Phạm Tốn phương Họa hại, thương trưởng tử, trưởng nữ nhi chung vô tử. Nhược cải Sanh khí phương, hựu đương ngủ tử hỹ… Sinh khí Tham lang giáng Ngủ quỷ. Như phạm Ngủ quỷ nghi tu Sanh khí tắc tiêu họa hỷ. Tu kỳ sở sanh dĩ chế kỳ hung dả.
Thiên y Cự Môn bại Tuyệt mạng, Phúc đức Vũ khúc chế Lục sát . Cửu tinh chế phục tử an nhiên. (Phạm Tuyệt mạng, dụng Thiên y, phạm Lục sát dùng Phúc đức, trừ chế đặng tốt). Xem 8 bát quái Phi cung phối hiệp thì biết tuổi hạp kỵ hướng nào…

Lược dịch: Càn mạng – nhà phương Đông phạm Ngũ Quỷ. Hoặc làm đường từ hướng Đông hướng về. Khó có con trai đầu, chỉ có hai con. Nếu nhà hướng Bắc phương phạm Lục sát. Con thứ bị hại.
Phạm Tốn phương là Họa Hại – theo Phong Thủy Lạc Việt là hướng Tây nam – Con trưởng là nữ sẽ gặp những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng nếu hướng nhà quay về Sinh khí – Chính Tây sẽ sinh 5 con, đều thành đạt vui vẻ. Sinh khí là sao Tham Lang giáng Ngũ quỷ, tôt. Nếu nhà phạm hướng Ngũ Quỷ, chỉnh sửa bếp quay về hướng Sinh Khí sẽ tiêu trừ được. Thiên Y/ Cự Môn bại Tuyệt Mạng. Phúc Đức / Vũ khúc chế Lục sát. Cửu tinh chế phục bốn phương sẽ bình an.
HÔN NHƠN
Nhứt Càn mạng nhơn vấn, Dương công viết:
Cầu hôn nan tựu hà pháp khả tốc? – Công vi chi, cải Táo hướng Diên niên Khôn phương hựu ư phụ mẫu thân sàng chi. Khôn phương an trang hựu hiệp Diên niên phân thê phòng quả bán tải đắc thê. An hệ Diên niên Khôn phương chi nữ dả.

Lược dịch: Người Càn mạng hỏi. Dương công trả lời: Khi cầu hôn gặp khó khăn, giải pháp tốt nhất là xoay miệng lò về phía Phúc Đức – Khôn cung. Đó là cung của cha mẹ. Nếu dùng phương Khôn để xây phòng cho vợ chồng mới cưới sẽ rất tốt. Đây là phương cát lợi cho người nữ.
Chú ý:

* Khôn phương theo Phong thủy Lạc Việt ở phía Đông Nam.
TỬ TỨC
Nhứt Càn mạng nhơn nan đắc tử? Công vi chi cải Táo khẩu hướng Sanh khí Đoài, hậu sanh (5) ngủ tử.
Giả như di Táo khẩu hướng Diên niên Khôn hửu tứ tử. Hướng Thiên y Cấn hửu 3 tử. Dư kiến công vi Càn mạng nhơn di Táo hướng Cấn – phương sanh 3 tử, hậu cải Táo khẩu hướng Đoài hựu sanh 5 tử, cộng sanh 8 tử. Tổng đắc Sanh khí phương hướng trùng phát tử tôn nải tối nghiệm dả. Nhiên dạng La kinh tu tồn lưu đắc miên. Nhược Táo khẩu Dần hướng ngộ (lầm) dụng Giáp hướng thị Ngủ quỷ. Sửu hướng, ngộ dụng (Làm sai) Tý Quý tắc phạm lục sát, Càn mạng nhơn đại hung Tý phương, Tý hung.
Kiến Càn mạng nhơn di Tây Bắc Càn phương, lại lộ, Táo khẩu hướng Càn chỉ sanh nữ, vô tử dỉ Bồ chúc tinh vô nam dả. Càn mạng Táo khẩu phạm Ly. Chủ: Thương tử hoặc bất sanh tử nhi tự bệnh yểu. Thử tuyệt mạng, hung. Chủ: Bệnh yểu, tuyệt tự dả, hựu kiến Càn mạng nhơn nam phương tu Hỏa ốc tam gian nhi thứ niên tử tuyệt, tôn thương, thả tự hoạn bệnh thổ diệt nhi tữ (Những chữ tữ dấu ngã là chết, để dấu hỏi là con cái). Hửu Càn mạng nhơn khách di Nam phương khoan bất sanh hườn (đi không về). Tổng chi Càn mạng nhược phạm ly phương Tuyệt mạng, tác táo khẩu, di cư, lai lộ, xuất hành, tu tạo, xuất giá tất đại hung, Nhứt Càn mạng nữ giá di Sanh khí phương… Sanh đắc 5 tử, hậu cải Ly phương Táo khẩu triều Nam, tiên thương trung tử tật hoạn, đàm lục chứng bệnh kỳ nguyệt bệnh chung, 3 niên nội trưởng tử cập 3, 4, 5 tử cụ vong. Hựu Càn mạng nữ – giá di Nam – phương, tuy Táo khẩu hướng Ly nhi sanh 5 tử hậu giai yểu vong, dỉ phạm lai lộ chi tuyệt mạng dả. Nhược năng cải Táo khẩu hướng Sanh khí tắc vô thương nhi hửu tử hỷ. Phân phòng, tu phương, lai lộ đồng nghiệm. Hựu tu môn phòng, Táo sàng năng yểm hung phương hướng kiết hung thử vi tận thiện, bán ngoạt tức kiến ứng nghiệm. Sanh khí giả Đoài phương dả. 

Lược dịch: Có người Càn Mạng khó sinh con hỏi. Dương Công khuyên nên quay miệng lò về hướng sinh khí phía chính Tây, sau đó sinh 5 con. Nếu quay về hướng Phúc Đức Khôn sẽ sinh 4 con. Hướng Thiên Y Cấn sẽ sính 3 con. Sau đó lại quay bếp về phía Sinh khí Đoài phương, sẽ tiếp tục sinh 5 con cộng là 8 đứa (Khiếp!  <!–[if !vml]–>Description: unsure.gif<!–[endif]–> ).
Như vậy là trùng phát tử Tôn. Rất nghiệm.
Việc dung La kinh phải rất thận trọng.
Nếu muốn để để miệng bếp về hướng Dần, nhưng lầm về hướng Giáp. Tức là phạm Ngũ Quỉ.
Nếu muốn để miệng bếp hướng Sửu, nhưng lầm về hướng Tý, Quý tức là phạm Lục sát.
Người Càn mạng rất kỵ phương Tý. Đại hung.
Người phi cung Càn, chọn nhà hướng Tấy Bắc, sát lộ. Miệng bếp cũng hướng Càn sanh con gái nhiều. (Người phi cung Càn) – Đặt bếp vào phương vị của sao Tả Phù (Phương Phục Vị – Tức Hỏa Thiêu Thiên Môn), khó có con trai.
Người Càn cung , nếu miệng bếp quay về phương Ly, dễ hại cho con cái, hoặc con cái yểu tử. Kế đến là bếp quay về hướng Tuyệt mạng, rất xấu. Chủ về việc, bệnh tật, sức khoẻ kém, khó có con. Người Càn mạng mà nhà quay sang hương Nam gọi là Hỏa ốc. Nhà xây ba gian, chỉ qua năm là tử tuyệt, thương tôn, bệnh tật mà chết. Người Càn mạng chuyển nhà ở phương Nam, như người đi không trở lại.
Kết luận:
 Người Càn mạng không nên dùng phương Nam. Đó là hướng Tuyệt Mạng cho mọi việc lien quan đến nhà như: hướng bếp. làm lộ vào nhà, đặt phòng, đi xa, đều xấu.
Người Càn mạng là nữ chuyển về phương Sinh Khí, sẽ sinh 5 con. Nhưng nếu quay bếp về hướng Ly thì con giữa sẽ gặp bệnh tật. Bản thân dễ mắc bệnh đàn bà. Chỉ trong vòng ba năm cái xấu sẽ xảy ra.
Nếu nhà lỡ làm hướng Ly, nên làm lộ vào nhà, xoạy lại hướng nhà, hướng phòng, hướng bếp quay về Sinh khí mọi sự đều tốt.
*Chú ý:
– Theo Bát trạch Minh Cảnh từ cổ thư chữ Hán thì bếp phải đặt ở phương xấu. Bởi vậy, với Phục vị là cung tốt , nên quan niệm của Bát trạch Minh Cảnh là khó có con trai. Thực ra sự việc ngược lại. Quan niệm đặt bếp ở cung xấu của Bát trạch Minh Cảnh là một sai lầm. Anh chị em tuyệt dối không nên theo.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

– Lớp Phong thủy Lạc Việt đưa nguyên văn sách lưu truyền có nguồn gốc Hán để anh chị em tham khảo. Trong sách có nhiều cái nói hơi quá đáng, nhưng đại để là người Tây tứ cung thì hợp Tấy tứ trạch trong mọi vấn đề liên quan là: Hướng nhà, hướng lộ dẫn vào nhà, hướng bếp, phân phòng, đều chọn Tây Tứ trạch.– Đặc biệt lưu ý: 
Bát trạch Lạc Việt: Trong nhà ít khi đồng nhất người nhà thuần Tây hoặc Đông Tứ Cung. Anh chị em chú ý sắp xếp sao cho người Đông cung ở phòng tọa phương vị Đông cung, người Tây cung ở phòng tọa phương vị Tây cung. Nhưng hướng nằm, hướng cửa – nếu có thể được – hướng ngồi làm việc phải theo gia chủ.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

TẬT BỆNH
* Nhứt Càn mạng nam ngộ dụng Táo khẩu hướng Lỵ, nhi thương Càn mang Kim, tâm Hỏa thiêu khắc phế Kim, tiên tâm thống đàm Hỏa, hậu khái thấu lao siểng, thổ huyết, phế nam, đau thống nảo thang tỷ (đau óc, sổ mũi, thường khát nước). 

Lược dịch: Người mạng Càn nam lỡ để bếp hướng Ly. Ly hỏa khắc Càn Kim (Theo quan niệm của cổ thư chữ Hán . Nguyên lý Việt: Càn là Âm Kim đới Thủy). Tim thuộc Hỏa sẽ vương thiêu đốt phổi thuộc Kim. Do tim đầy Hỏa khí. Dẫn đến lao phổi, thổ huyết.
* Dương công hiệp kỳ mạc thực triều nam tạp Táo, tân thiêm nhứt tiểu Táo hoặc phong lư khẩu triều Đông Bắc Cấn Thiên Y, phương lư yểm bổn mạng ốc nội chi Tuyệt mạng Ly phương, di trừ Ly quái chi hung. Thực ngoại dư nhi bệnh toàn thang trừ căn bất phát. Cái Thiên Y nải. Chủ: Trừ bệnh chi kiết thần dả. 
Lược dịch: Sách Dương công nói về phương pháp đặt bếp. Nên đặt ở phương Ly, cửa bếp quay về hướng Đông Bắc Thiên y. Bếp đặt ở phương Ly sẽ trừ được tà khí của Ly quái với người Càn mạng. Đây là một phương thuốc tổng hợp có khả năng diệt trừ mọi bệnh tật. Hướng Thiên Y trừ bệnh tật như Thần Y.

Chú ý:

Bát trạch Lạc Việt xác định bếp phải tọa phương vị tốt.
* Hửu nhứt Càn mạng nhơn phạm Chấn Tốn, 2 phương chi: Lai lộ, Táo khẩu…..hoạn sanh phế khí, mục tật, trạch thương thủ túc, ma phong ám. Chủ: năng hoán đẳng chứng. Hựu nhứt Càn mạng nhơn phạm ngủ quỷ phương, huớng hoạn thương hàn, ngược tật, khước sang (rét, ghẻ lở) thận hư chư tật. Hựu nhứt Càn mạng nữ phạm Khảm lục sát, chứng phạm: Xích, bạch đái hạ, kinh kỳ đình trở, tích thử tiểu sản.
Nhược tương lai lộ, Táo khẩu đẳng cải hướng Cấn phương Thiên Y vị tức trừ bịnh căn. Hướng Khôn Diên niên thả đa thọ hỷ.

Lược dịch:Nếu người mạng Càn phạm hai phương Chấn – Tốn. Dùng làm lộ vào nhà, hướng bếp sẽ sinh tà khí ở Phổi, bệnh ở mắt, chây tay yếu, thành tật. Thần kinh yếu. Chủ về bệnh tật thất thường khó chữa.
Người Càn mạng phạm hướng Ngũ Quỷ (Chính Đông) sẽ dễ bị bệnh thương hàn, dị tật, người ớn lạnh, hay ghẻ lở, do Thận khí suy.
Nếu người Nữ Càn mạng phạm hướng Bắc Khảm – Lục Sát, dễ mắc các bệnh phụ nữ như: Xích, bạch đái hạ. Kinh kỳ chậm hoặc những bệnh liên quan đến sinh nở.
TAI HOẠ
Nhứt Càn mạng nhơn phạm Táo khẩu hướng Lỵ, tức hửu quang phi, khẩu thiệt, Hỏa tai, trung tử ngỗ nghịch, thương thê nữ. Hựu nhứt Càn mạng nhơn Táo giữ đại môn cụ triều Lỵ kỳ thê dâm loạn. Dư sư hiệp kỳ cải Táo khẩu hướng Đoài, nhi Táo toà yêu đạo (khói) yểm đại môn hậu Bính Ngọ đinh phương dỉ trừ Ly hung, hậu quả bất dâm.
Hựu Càn mạng phạm Bắc phương lai lộ. Táo hương hửu nhơn mạng du liêng phong ba chi sự. Phạm Chấn phương Tắc nô bộc thiếc thủ phi tẩu (bị tớ cấp trốn đi) thất tặc. Hỏa tai, liêm thương trưởng tử. Phạm Tốn phương hửu Đông Nam, phu nhơn tuan tụng, hựu thương mẫm thê cập trưởng tử, nữ.
Cụ chiều bệnh tật môn giải trừ chi pháp, đụng chi đại kiết (phạm lầm thì dùng phép trừ được đại kiết)

Lược dịch:Người Càn mạng, miệng bếp quay hướng Nam, dễ bị khẩu thiệt, thị phi. Hỏa hoạn, con giữa ngỗ nghịch, khổ vợ và con gái. Đặc biệt mở của chính cũng hướng Ly thì vợ dâm loạn. Bởi vậy, nên sửa bếp theo hướng Đoài, yểm hướng cửa phương Ly, sẽ thay đổi tính nết của vợ. Người Càn cung mà lộ vào nhà đi từ hướng Bắc, bếp cũng quay hướng Bắc, sinh mạng không an, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Phạm phương Chấn Đông, dễ bị dày tớ không trung thành, trộm cắp, bỏ việc. Hay mất mát của cải vì trộm cắp. Hướng Đông còn gọi là hương Liêm Trinh Ngũ quỉ, trai trưởng dễ gặp tai nạn. Phạm hướng Tốn – Tây Nam theo Phong Thủy Lạc Việt – vợ và con gái trưởng gặp điều chẳng lành.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Anh chị em thân mến .
Trên đây là nội dung của sách Bát trạch Minh Cảnh có xuất xứ từ cổ thư chữ Hán và lược dịch, mục đích để anh chị em tham khảo. Sách này không phải xuất phát từ nguyên bản gốc của Phong thủy Lạc Việt – có xuất xứ từ văn minh Lạc Việt, mà do các phong thủy gia đời sau viết – hoặc dịch lại từ sách Việt cổ, khi nền văn minh Việt lần lượt bị Hán hóa. Điều quan trọng chính yếu, anh chị em cần nắm được là: Người Đông cung thì mọi vấn đề liên quan đến nhà cửa đều thuộc Đông trạch và ngược lại. Những yếu tố bệnh tất, tại họa liên quan như sách Bát trạch miêu tả ở trên, chỉ là do cái nhìn của các phóng thủy gia viết với kinh nghiệm tích lũy được ở hoàn cảnh xã hội thời đó. Tất cả những yếu tố, bệnh tật, tai nạn, cát hung ..v.v… sẽ được phân tích, lý giải trên cở sở phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành, thông qua nguyên lý căn để phục hồi từ văn minh Lạc Việt – “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Sẽ học trong các bài tới đây. 
II. KHẢM MẠNG ĐỊNH CỤC
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng đắc Tốn phương lai lộ. Táo hướng Sanh khí hửu 5 tử. Đắc Lỵ Diên niên hửu sanh 4 tử. Đắc Chấn Thiên Y hửu 3 tử. Đắc Khảm phương Phục vì chỉ hửu nữ. Phạm Khôn tuyệt mạng thương trưởng tử hậu tuyệt tự. Phạm Cấn Ngủ quỷ thương quý tử hậu hửu 2 tử. Phạm Càn lục sát thương trưởng tử hậu hửu 1 tử. Phạm Đoài hoai hại thương quý tử, nữ, nhi vô tử. Nhược cải sanh khí phương tắc hựu hửu tử hỷ. Thú Đoài mạng thê, chủ bất hoà. Phạm Lộc tồn Thổ tinh tuy vô tử nhi hửu thọ.

Lược dịch (Có sửa chữa theo Bát trạch Lạc Việt)
Người mạng Khảm đường vào nhà từ hướng Tây Nam đến rất tốt. Bếp quay về phương Sinh Khí con cái khỏe mạnh. Gặp Thiên Y – Chấn phương có 3 con. Quay về hướng Khôn (Đông Nam) phạm Tuyệt mạng, con cái chia lìa. Phạm phương Cấn (Đông Bắc) hai trung nam, phương Càn (Tây Bắc) hại trường Nam hoặc chủ gia. Phạm phương Đoài (Tây) hại con gái út. Xấu. Bếp và nhà quay hướng Đoài (hướng Tây) hại cho người vợ, thường gây bất hòa. Nếu phạm Họa hại thì khó có con, nhưng con (hoặc bản thân?) sống thọ
HÔN NHƠN
Bát Trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng nghi phối Tốn thê, Táo khẩu nghi hướng Tốn. Cầu hôn nghi Táo khẩu hướng Ly, cập an trang ư phụ mẫu thân trang chi Ly phương, phân phòng, lai lộ, tu phương đồng Khảm mạng phu phối Tốn mạng thê hửu 5 tử hựu hoá lục tức phu thành gia.

Lược dịch (Có sửa chữa theo Bát trạch Lạc Việt):Người mạng Khảm lấy vợ phi cung Tốn. Miệng bếp quay về hướng Tốn (Tây Nam); cầu hôn quay miệng bếp về hướng Ly (Hướng Nam). Khi có con và làm cha mẹ nên quay cửa hướng Ly. Chọn phòng, làm lộ nên chọn hướng cùng Đông trạch với Khảm mạng. Người Khảm mạng lấy vợ phi cung Tốn có từ 5 đến 6 con, yên bề gia thất.
TỬ TỨC
Bát Trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng nam đắc Tốn lai lộ, táo khẩu, hựu giữ Tốn mạng thê tượng đồng giai đắc sanh khí tắc hửu 5 tử hậu phú quý dả. Nhứt Khảm mạng nhơn sơ niên vô tử hậu thiêm tạo Đông phân phòng nhi sanh 5 từ.
Hựu kiến Khảm mạng nhơn đắc Tốn mạng thê quả đắc 5 tử, hậu lai ngộ cải Táo khẩu hướng Khôn thực (that) chi 10 niên nhi tử (con cái) giai tử (đều chết).

Lược dịch:
Người Khảm mạng lấy vợ Tốn có 5 con. Nhưng nếu miệng lò quay về hướng Khôn thì trong vòng 10 năm con cái ly tán, hoặc có người chết yểu.
Có sách viết:
Hựu kiến Khảm mạng thê phối Tốn mạng phu sanh 5 tử, hậu niên lảo phu vong (sau chồng chết) ngộ cải Táo khẩu hướng Khôn, thực 8 niên tử việc giai tử (con chết ráo).
Lược dịch:
Người Khảm mạng vợ Tốn, xoay miệng bếp hướng Khôn thành quả phụ, sau 8 năm các con ly tán, hoặc chết yểu.
Phong Thủy Lạc Việt cho rằng: 
Các sách Tàu phóng to quá đáng yếu tố bếp đến mức con chết thì kinh quá. Phòng thủy Lạc Việt cho rằng đó chỉ là một yếu tố xấu cần quan tâm thôi.
Hựu Khảm mạng nhơn vấn sư viết: 
Ngã Khảm mạng quyết thú Đoài mạng thê Họa hại Lộc tồn Thổ hựu mạng phạm cô dương vô tử hà pháp hoán chi (chửa đổi bằng cách nào?)
Sư viết: 
Tương đại môn cải triều nhử Khảm mạng chi Đông Nam Tốn hướng đắc sanh khí đương hửu 5 tử, tuy mang phạm cô việc đương hửu tử (dầu phạm cô thần vẩn có con), hựu tương tiểu Táo hoặc phong lư, điếu dỉ khẩu triều Càn hướng sử thê thục (thuộc cung vợ hạp), thực nải thê mạng Sanh khí kiết hướng việc đương hửu tử, kỳ nhơn tùng chi hậu quả sanh 5 tử. Khả kiến dương trạch chi Táo khẩu phương hướng năng hoán hoai Tạo hoá thân nghiệm như thử.

Lược dịch:
Người Khảm mạng tìm thày hỏi:
Tôi Khảm mạng nhưng đã lấy vợ cung Đoài – Họa Hại Lộc tồn, phạm cách đơn độc không con, có phương pháp nào để khắc phục?
Thày nói:
Nên quay cửa chính về phía Đông Nam (Là hướng Tốn theo sách Tàu. Nhưng anh chị em lưu ý: sách Tàu sai đúng hướng này/Thiên Sứ). Hoặc quay miệng bếp về hướng Càn là hướng hạp với vợ. Đó là hướng Sinh Khí của vợ vẫn có 5 con. Đấy là cách dùng hướng của miệng bếp để thay đổi qui luật của Tạo hóa.

Anh chị em lưu ý:
Hiện nay có mấy quan niệm khá phổ biến trong phương pháp Bát trạch – có xuất xứ từ cổ thư chữ Hán – như sau:
– Không căn cứ vào tuổi chủ gia, mà do quan niệm sai lầm căn cứ vào người làm ra kinh tế nhiều trong gia đình để định hướng nhà.
– Khi đặt bếp thì căn cứ theo tuổi vợ – như trong đoạn văn trên (In đậm, nghiêng) từ sách 
Bát trạch Minh Cảnh, là một sai lầm khá nghiêm trọng.
Tôi đưa các đoạn văn nguyên bản từ sách 
Bát trạch Minh Cảnh để anh chị em tham khảo, chứ không phải để anh chị em thực hành.
– Sách cổ chữ Hán thường quan niệm vợ chồng phải hợp cung Mạng trong cả phi cung trong phong thủy, hay hợp tuổi mới lấy nhau được. Đây là quan niệm sai và vô lý theo ngay chính phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt. Tôi đã chứng minh trong tiểu luận “Luận tuổi Lạc Việt”.
Trong Phong thủy Lạc Việt nguyên lý tiên quyết là:
– Âm phải thuận tùng Dương.
Bất luận nam, nữ, giàu nghèo, chức quyền ..vv…Người lớn tuổi nhất cùng huyết thống ở trong nhà thì phải dùng phi cung của người đó làm bản trạch. Thí dụ:
Mẹ già (Nữ) là người lớn tuổi nhất trong nhà , thì bản trạch phải theo phi cung của mẹ. Chị gái là người lớn tuổi nhất trong nhà thì bản trạch phải theo chị gái. Nếu chị có chồng phải theo anh rể.
Sinh trước là Dương, sinh sau là Âm. Mẹ là Dương , con là Âm. Chồng là Dương vợ là Âm. Anh / chị là Dương, em là Âm.
– Bếp phải thuận theo người có mệnh làm bản mệnh trạch.
Bất luận vợ phi cung gì, bếp phải xoay theo hướng người có phi cung là bản mệnh trạch.

TẬT BỆNH
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Nhứt Khảm mạng thê phạm tỳ trệ (đau tỳ) nhi phu khai phạm bỉ sư quá chi vấn nhiên dạ vấn văn bệnh thinh. Sự viết: Dỉ tiều Tao cải Chấn Thiên y phương giữ tha ẩm thực tứ vủ (Dùng Bếp riêng hướng Thiên y ăn uống tự lành mạch).Điểm chủ viết: “ Lão thê tù trệ ngọa sàng bán niên số nhựt bất thực tương nguy nan cứu”. Sư viết: “ Tân táo thí giả thang hoàn chi cập ẩm bán trảng”. Bệnh thê viết: Hương kim hảo dược dả tuan dư nhi chẩn” (Bếp mới sắc nửa chén thuốc thơm ngon dư tuần đã mạnh). Cải kỳ Táo khẩu hướng Không tuyệt mạng phương cố hoạn tỳ trệ.Sư viết: “Tân táo cải hướng Chấn Thiên y dã”.

Lược dịch:Người Khảm mạng có vợ bị đau tỳ, hỏi thày. Thày nói: Quay bếp về phương Chấn là Thiên Y phương, tự khắc sẽ khỏi bệnh. Lại hỏi tiếp: Vợ tôi đã nhiều tuổi, nằm liệt giường đã hơn nửa năm nay, nhiều ngày không ănh ước gì được. Bệnh rất nguy kịch, làm sao cứu được?”. Thày nói: “Dùng bếp mới hướng Chấn – Thiên Y để sắc thuốc cho uống,quá nửa tuần sẽ khỏi. (Sau đó) Người vợ xác nhận là đúng, nói: “Dùng bếp mới uống thuốc quả nhiên khỏi bệnh”. Bởi vậy, nếu người mạng Khảm bếp hướng Khôn là Tuyệt Mạng (Đông Nam theo Phong thủy Lạc Việt), vợ dễ mắc bệnh liên quan đến bụng (tỳ vị), nền quay bếp về hướng Thiên Y sẽ khỏi bệnh.
Anh chị em lưu ý:
Các sách có nguồn gốc từ bản văn chữ Hán để lại chỉ có phần ứng dụng và không có phần lý thuyết liên hệ giải thích. Tôi đưa lên đây để anh chị em tham khảo là chính. Anh chị em cũng ghi nhớ là: Bát trạch chỉ là một yếu tố tương tác trong phong thủy. Bản thân môn Phong thủy cũng chỉ là một trong nhiều yếu tố tương tác tạo nên cuộc sống. Cho nên không thể chỉ quay bếp sai hoặc đúng hướng là bệnh phát sinh hoặc tự khỏi được.
Tuy nhiên chúng ta phải khẳng định rằng:
Phong thủy là một trong những yếu tố quan trọng tương tác đến cuộc sống của chúng ta, nhưng không phải là yếu tố duy nhất.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

III. CHẤN MẠNG ĐỊNH CỤC
Bát trạch Minh cảnh viết:
Chấn mạng đắc Nam phương Sanh khí lai lộ Táo khẩu hữu 5 tử. Đắc Diên niên hữu 4 tử. Đắc Khảm Thiên Y hữu 3 tử. Phục vì chỉ hữu nữ. Phạm Đoài tuyệt mạng tiên thương quý tử, nữ, ma đậu lao khái nhi tuyệt. Phạm Cấn lục sát thương quý tử hậu hửu 2 tử.
Lược dịch: 

Phàm ngườì phi cung Chấn, nếu đặt bếp hướng Nam có 5 con. Hướng Phúc Đức (Diên Niên) được 4 con. Hướng Thiên Y được 3 con. Đặt bếp hướng Phục vị khả năng sinh con một bề toàn nữ. Nhược bằng đặt bếp hướng Đoài phạm Tuyệt Mang, tổn hại con gái, dễ bị bệnh đậu, hoặc lao mà chết lúc còn nhỏ.

Sách viết:
HÔN NHƠN
Chấn mạng nghi phối Ly mạng thê, Tốn Khảm thứ kiết. Cầu hoá nghi an trang Tốn phương tắc việc thành. Phối Đoài thê hoặc Táo khẩu hướng Tây chủ: Thê ải (có hại cho vợ).


Lược dịch:

Người phi cung Chấn lấy vợ cung Ly, hoặc Tốn, Khảm thì tốt. Nếu dùng hướng Tốn làm nhà mọi việc hanh thông. Lấy vợ Đoài hoặc quay bếp về phương Đoài thì người vợ đau yếu, bệnh tật.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>
Chú ý:
Trên thực tế cho chúng ta thấy rằng: Nam Nữ yêu nhau cứ lấy vì đó là luật tương hợp Âm Dương. Trường hợp vợ chồng đồng Tây hoặc Đông Tứ cung thì rất thuận lợi cho việc làm phong thủy. Nhưng nếu không đống thuận Đông Tây tứ cung thì nhất thiết theo nguyên tắc Âm Thuận tùng Dương để thực hiện và lấy tuổi con để hóa giải xung khắc vợ chồng.
Anh chị em cũng lưu ý rằng: Xem Phong Thủy giỏi thì trên phải tường Thiên Văn – Huyền không Thái Ất, Dưới phỉa tỏ Địa lý – Khí mạch trong Âm trạch phải biết thì càng tốt, không thì phải giỏi Thủy Pháp (Sẽ học sau).
Sách viết:
TỬ TỨC
Chấn mạng Táo khẩu hướng Ly tắc hửu 5 tử, nhược lảo niên bất năng sanh giả, đắc hướng việc hữu thôi công 5 nhơn, hoặc nô bộc 5 nhơn, tặng đạo việc hữu tẩu đệ 5 nhơn, quang khả đại đắc tài, hựu khả hoán tử qui gia. 

Lược dịch: 
Người phi cung Chấn, bếp hướng Ly có 5 con.Về già sức khỏe suy yếu nhưng do được hướng nhà cũng có 5 người phụ việc. Khi có việc ốm đau, bệnh nặng hoặc chết cũng có năm người anh em bên cạnh giúp đỡ. Gia đình khá giả. Con cái đi xa cũng về.

Sách viết:
Tăng kiến nhứt lão ông vấn sư viết: Tử cửu các qui hữu hà pháp khả hạp kỳ ghi.
Sư vi chi cải Táo tọa, phẩn xí yểm kỳ nhơn chi tuyệt mạng phương hựu Táo khẩu triều Sanh khí dỉ chiêu tử quy gia. Thực chi tuần dư kỳ tử tại ngoại mộng kiến. Phong bào huyền khắc Táo thần ngữ viết: “Mộng thấy thần Táo bảo”. Nhử phụ hoán cấp hà bất tảo hoai. Kỳ tử vu qui. Dư phòng thử pháp vi nhơn hoán tử hươn gia tuy minh linh việc nghiệm dả.

Lược dịch:
Một ông lão gặp thày Phong thủy hỏi: Nếu chẳng may khi sắp mất, muốn các con ở xa về kịp thì làm thế nào?
Thày khuyên nên sửa lại hướng bếp quay về hướng Sinh khí, Nhà vệ sinh trấn phương Tuyệt Mang. Chỉ khoảng ngoại một tuần thì con ở bên ngoài sẽ mộng thấy thần nhân mách bảo “Phải về ngay!”. Con sẽ về. Đây l;à phương pháp hoán đổi để con ở xa về nhà rất hiệu nghiệm.
Sách viết:
Sự tăng vi nhơn hoán đào bộc (tớ trốn) việc dỉ Táo khẩu triệu chủ nhơn sanh khí phương hựu tương Táo toạ yểm chủ nhơn ngủ quỷ phương kỳ bộc tức lai. Cái dỉ ngủ quỷ tắc kỳ bộc bất đào hướng sanh khí tắc kỳ bộc lai dả.
Lược dịch:
Trường hợp đày tớ trong nhà bỏ việc thì chuyển Táo khẩu theo hướng Sinh Khí của chủ nhà và để bếp tọa tại phương Ngũ Quỷ thì đầy tớ sẽ quay về. Khi bếp trấn phương Ngũ Quỷ thì đày tớ không bỏ đi , hướng bếp Sinh Khí sẽ cón thêm người đến làm việc.
Lưu ý: 
Sách Bát trạch Minh Cảnh cho rằng bếp phải tọa hung phương. Điều này sai. Phong Thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Vì bếp cũng như nhà: Tọa tốt, sơn tốt và hướng tốt mới cực tốt. Điều này cũng phủ hợp với quan niệm của Dương trạch tam yếu.
Sách viết:
Hựu nhứt Chấn mạng nhơn bán lảo vô tử, bào châu tuế Tốn mạng minh linh thủ danh yểm tử, chi 3 tuế thời Thần phụ quận tọa ngử viết. Mạc danh yểm tử nghi cánh danh khánh thọ kỳ hậu lão chủ 100 tuế thượng kiên. Dỉ chấn mạng đắc Tốn Diên niên hữu tử nhi hữu thọ dả.
Nhơn vấn sư viết: Hài nhi sang đậu dạ khốc hà giả? Thử phân phòng Táo khẩu chi quyết dả, khả tương thử Đông mạng tử, ư phụ mẫu thân sàng chi Tốn phương xích cơ chi ngọa tắc trừ phân phòng chi hung nhi cập đắc kiết hựu thiêm tiểu Táo dỉ Táo khẩu hướng Tốn tiện nhủ mẫu thực chi trừ tạp Táo chỉ hung kỳ hậu quả an thế chi vi phụ mẫu giả. Bất tri kỳ pháp nhi ngộ tử dỉ (con) Thổ tả kinh cam chủ chứng, bi tai. Nhược luận Tây mạng hoài tắc nghi ư phụ mẫu thân sàng chi Tây phương ngọa tắc kiết, nhi Đông tắc hung dà. Táo khẩu việc nghi hướng Tây nhi hạp nhủ mẫu thực chi kiết. Dư thường khuyển hữu (bạn) nhơn: Y sỉ tri kỳ pháp dỉ trị tiểu nhi đậu sang chi loại thập hài cửu hượt (10 đứa chữa khỏi 9 đứa) bá vô nhứt thất. Thượng đế hảo sanh chi đức quảng nhơn thế tự thục chi mỹ. Tại Ngô thường ốc tích âm đức ư minh minh hậu nhơn tất xương, khởi tùng tăng thủ lợi lộc hồ tai.


Lược dịch:

Người mạng Chấn có con mạng Tốn, lên ba tuổi là con quí tử. Có người bảo: Đó là cách trường thọ. Nhân hỏi thầy, nói rằng:
Phàm hài nhi khóc đêm hoài thì phân táo lại và phòng thuộc Đông mạng cho con ở. Giường nằm của cha mẹ cũng quay về phương Tốn thì tránh hung tìm kiết. . Cửa bếp cũng quay về hướng Tốn thì tốt cho cả cha mẹ. Các bệnh khác như thổ ta, kinh phong, cam sài cũng hết. Tóm lại người Tây mạng giường năm thuộc Tây trạch tất kiết, ngược lại sẽ hung. Với cách này thì trị bệnh con trẻ rất hữu hiệu. Với người thường tu nhân tích đức việc rất nghiệm cho sự tốt đẹp.
Chú ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo. Phong Thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Bản thân phong thủy chỉ là một yếu tố tương tác hỗ trợ đắc lực cho sức khỏe, chứ không phải yếu tố duy nhất trừ mọi tai họa.
Sách viết:
TẬT BỆNH
Chấn mạng Táo khẩu phạm Đoài hướng tắc khai thấu, thổ huyết, thương phế, phúc cách chư chứng. Phạm Cấn tắc dương mai, lậu độc, tỳ vị lợi ngược đối khẩu ác thư (ung thư) Phạm Càn: Thương phế, thổ huyết, khái thấu. Phạm khôn. Ngược lợi, thang huyết, lậu bệnh.

Lược dịch:
Người Chấn cung, nhưng bếp quay phía Tây sẽ bị ho lao thổ huyết, bụng to chướng như bụng lơn (Heo). Táo khẩu cung Cấn sẽ bị các bệnh Phong tình như HIV, Giang mai…Khí tỳ vị uất, sinh ung thư. Táo khẩu hướng cung Càn, Khôn cũng vậy.
Chú ý: Người Đông trạch thì bếp phải trông trù. Tây trạch bếp Tây trù.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Sách viết:
TAI HỌA
Chấn mạng phạm Đoài phương, uý tử bất hiếu, tiên thương tử nữ, hậu thương trưởng tử, trưởng nữ, tiểu tỷ (cô) tuyệt tự, hựu khủng tự ải. Nhược nữ phạm thủ Chủ: Lao khái bất tư thực hoặc lai lộ kiết giả hữu cứu.
Phạm Cấn hửu Đông bấc huỳnh hủy (hoai) nhơn vu liêng nhơn quang phi. Thương quý tử, tiểu bộc.
Phạm Càn phương thiên thương lão phụ (cha) hậu thương trưởng tử, lão bộc hựu tư tự ải, tán tặc, hựu hỏa tai, bộc phi đào.
Phạm Khôn hửu Tây Nam phương huỳnh hủy nhơn toan tụng phá tài hựu thê bất hoà, lão mẫu bất an ninh, liêm thương mẫu thê, đại nữ, lão tỷ (Cô bà).

Lược dịch:
Người Chấn mạng nhà trạch Đoài con cái bất hiếu. Trước là con gái út bị, sau đến con trai và con gái lớn trở thành bà cô , không con cái, dẫn đến khủng hoảng tinh thần, yếm thế. Nếu nữ mạng phạm phải dễ bị lao hoặc phải đi tu mới cứu giải được. Nhược phạm Cấn hướng bị bệnh về mắt và tinh thần hoảng loạn. Hại cho con thứ và nô bộc nhỏ. Nhược phạm Càn trạch thì trước là hại cho cha, sau đến con trưởngm người quản gia đau buồn, tinh thân hoảng loạn. Nếu phạm Khôn trạch là phương hoàng họa thì trong nhà mắc lo toan kiện tụng , tán gia bại sản. Vợ chồng bất hòa, đàn bà trong nhà bệnh hoạn, ốm đau, tai họa.
ANH CHỊ EM LƯU Ý:
Trên đây là tài liệu tham khảo. Chúng ta cần biết rất rõ rằng: Bát trạch chỉ là một yếu tố tương tác trong Phong Thủy Lạc Việt và không phải là yếu tố duy nhất trong Phong Thủy, Và bản thân phong Thủy cũng không phải yếu tố tương tác duy nhất trong cuộc sống, nhưng là phương tiện hữu hiệu gây ảnh hưởng tốt xấu lên cuộc sống. Càng học về sau anh chị em sẽ càng biết rõ điều này .

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

(còn tiếp)
II. KHẢM MẠNG ĐỊNH CỤC
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng đắc Tốn phương lai lộ. Táo hướng Sanh khí hửu 5 tử. Đắc Lỵ Diên niên hửu sanh 4 tử. Đắc Chấn Thiên Y hửu 3 tử. Đắc Khảm phương Phục vì chỉ hửu nữ. Phạm Khôn tuyệt mạng thương trưởng tử hậu tuyệt tự. Phạm Cấn Ngủ quỷ thương quý tử hậu hửu 2 tử. Phạm Càn lục sát thương trưởng tử hậu hửu 1 tử. Phạm Đoài hoai hại thương quý tử, nữ, nhi vô tử. Nhược cải sanh khí phương tắc hựu hửu tử hỷ. Thú Đoài mạng thê, chủ bất hoà. Phạm Lộc tồn Thổ tinh tuy vô tử nhi hửu thọ.

Lược dịch (Có sửa chữa theo Bát trạch Lạc Việt)
Người mạng Khảm đường vào nhà từ hướng Tây Nam đến rất tốt. Bếp quay về phương Sinh Khí con cái khỏe mạnh. Gặp Thiên Y – Chấn phương có 3 con. Quay về hướng Khôn (Đông Nam) phạm Tuyệt mạng, con cái chia lìa. Phạm phương Cấn (Đông Bắc) hai trung nam, phương Càn (Tây Bắc) hại trường Nam hoặc chủ gia. Phạm phương Đoài (Tây) hại con gái út. Xấu. Bếp và nhà quay hướng Đoài (hướng Tây) hại cho người vợ, thường gây bất hòa. Nếu phạm Họa hại thì khó có con, nhưng con (hoặc bản thân?) sống thọ
HÔN NHƠN
Bát Trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng nghi phối Tốn thê, Táo khẩu nghi hướng Tốn. Cầu hôn nghi Táo khẩu hướng Ly, cập an trang ư phụ mẫu thân trang chi Ly phương, phân phòng, lai lộ, tu phương đồng Khảm mạng phu phối Tốn mạng thê hửu 5 tử hựu hoá lục tức phu thành gia.

Lược dịch (Có sửa chữa theo Bát trạch Lạc Việt):Người mạng Khảm lấy vợ phi cung Tốn. Miệng bếp quay về hướng Tốn (Tây Nam); cầu hôn quay miệng bếp về hướng Ly (Hướng Nam). Khi có con và làm cha mẹ nên quay cửa hướng Ly. Chọn phòng, làm lộ nên chọn hướng cùng Đông trạch với Khảm mạng. Người Khảm mạng lấy vợ phi cung Tốn có từ 5 đến 6 con, yên bề gia thất.
TỬ TỨC
Bát Trạch Minh Cảnh viết:
Khảm mạng nam đắc Tốn lai lộ, táo khẩu, hựu giữ Tốn mạng thê tượng đồng giai đắc sanh khí tắc hửu 5 tử hậu phú quý dả. Nhứt Khảm mạng nhơn sơ niên vô tử hậu thiêm tạo Đông phân phòng nhi sanh 5 từ.
Hựu kiến Khảm mạng nhơn đắc Tốn mạng thê quả đắc 5 tử, hậu lai ngộ cải Táo khẩu hướng Khôn thực (that) chi 10 niên nhi tử (con cái) giai tử (đều chết).

Lược dịch:
Người Khảm mạng lấy vợ Tốn có 5 con. Nhưng nếu miệng lò quay về hướng Khôn thì trong vòng 10 năm con cái ly tán, hoặc có người chết yểu.
Có sách viết:
Hựu kiến Khảm mạng thê phối Tốn mạng phu sanh 5 tử, hậu niên lảo phu vong (sau chồng chết) ngộ cải Táo khẩu hướng Khôn, thực 8 niên tử việc giai tử (con chết ráo).

Lược dịch:
Người Khảm mạng vợ Tốn, xoay miệng bếp hướng Khôn thành quả phụ, sau 8 năm các con ly tán, hoặc chết yểu.
Phong Thủy Lạc Việt cho rằng: 
Các sách Tàu phóng to quá đáng yếu tố bếp đến mức con chết thì kinh quá. Phòng thủy Lạc Việt cho rằng đó chỉ là một yếu tố xấu cần quan tâm thôi.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Hựu Khảm mạng nhơn vấn sư viết: 
Ngã Khảm mạng quyết thú Đoài mạng thê Họa hại Lộc tồn Thổ hựu mạng phạm cô dương vô tử hà pháp hoán chi (chửa đổi bằng cách nào?)
Sư viết: 
Tương đại môn cải triều nhử Khảm mạng chi Đông Nam Tốn hướng đắc sanh khí đương hửu 5 tử, tuy mang phạm cô việc đương hửu tử (dầu phạm cô thần vẩn có con), hựu tương tiểu Táo hoặc phong lư, điếu dỉ khẩu triều Càn hướng sử thê thục (thuộc cung vợ hạp), thực nải thê mạng Sanh khí kiết hướng việc đương hửu tử, kỳ nhơn tùng chi hậu quả sanh 5 tử. Khả kiến dương trạch chi Táo khẩu phương hướng năng hoán hoai Tạo hoá thân nghiệm như thử.

Lược dịch:
Người Khảm mạng tìm thày hỏi:
Tôi Khảm mạng nhưng đã lấy vợ cung Đoài – Họa Hại Lộc tồn, phạm cách đơn độc không con, có phương pháp nào để khắc phục?
Thày nói:
Nên quay cửa chính về phía Đông Nam (Là hướng Tốn theo sách Tàu. Nhưng anh chị em lưu ý: sách Tàu sai đúng hướng này/Thiên Sứ). Hoặc quay miệng bếp về hướng Càn là hướng hạp với vợ. Đó là hướng Sinh Khí của vợ vẫn có 5 con. Đấy là cách dùng hướng của miệng bếp để thay đổi qui luật của Tạo hóa.

Anh chị em lưu ý:
Hiện nay có mấy quan niệm khá phổ biến trong phương pháp Bát trạch – có xuất xứ từ cổ thư chữ Hán – như sau:
– Không căn cứ vào tuổi chủ gia, mà do quan niệm sai lầm căn cứ vào người làm ra kinh tế nhiều trong gia đình để định hướng nhà.
– Khi đặt bếp thì căn cứ theo tuổi vợ – như trong đoạn văn trên (In đậm, nghiêng) từ sách 
Bát trạch Minh Cảnh, là một sai lầm khá nghiêm trọng.
Tôi đưa các đoạn văn nguyên bản từ sách 
Bát trạch Minh Cảnh để anh chị em tham khảo, chứ không phải để anh chị em thực hành.
– Sách cổ chữ Hán thường quan niệm vợ chồng phải hợp cung Mạng trong cả phi cung trong phong thủy, hay hợp tuổi mới lấy nhau được. Đây là quan niệm sai và vô lý theo ngay chính phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt. Tôi đã chứng minh trong tiểu luận “Luận tuổi Lạc Việt”.
Trong Phong thủy Lạc Việt nguyên lý tiên quyết là:
– Âm phải thuận tùng Dương.
Bất luận nam, nữ, giàu nghèo, chức quyền ..vv…Người lớn tuổi nhất cùng huyết thống ở trong nhà thì phải dùng phi cung của người đó làm bản trạch. Thí dụ:
Mẹ già (Nữ) là người lớn tuổi nhất trong nhà , thì bản trạch phải theo phi cung của mẹ. Chị gái là người lớn tuổi nhất trong nhà thì bản trạch phải theo chị gái. Nếu chị có chồng phải theo anh rể.
Sinh trước là Dương, sinh sau là Âm. Mẹ là Dương , con là Âm. Chồng là Dương vợ là Âm. Anh / chị là Dương, em là Âm.
– Bếp phải thuận theo người có mệnh làm bản mệnh trạch.
Bất luận vợ phi cung gì, bếp phải xoay theo hướng người có phi cung là bản mệnh trạch.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

TẬT BỆNH
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Nhứt Khảm mạng thê phạm tỳ trệ (đau tỳ) nhi phu khai phạm bỉ sư quá chi vấn nhiên dạ vấn văn bệnh thinh. Sự viết: Dỉ tiều Tao cải Chấn Thiên y phương giữ tha ẩm thực tứ vủ (Dùng Bếp riêng hướng Thiên y ăn uống tự lành mạch).Điểm chủ viết: “ Lão thê tù trệ ngọa sàng bán niên số nhựt bất thực tương nguy nan cứu”. Sư viết: “ Tân táo thí giả thang hoàn chi cập ẩm bán trảng”. Bệnh thê viết: Hương kim hảo dược dả tuan dư nhi chẩn” (Bếp mới sắc nửa chén thuốc thơm ngon dư tuần đã mạnh). Cải kỳ Táo khẩu hướng Không tuyệt mạng phương cố hoạn tỳ trệ.Sư viết: “Tân táo cải hướng Chấn Thiên y dã”.

Lược dịch:Người Khảm mạng có vợ bị đau tỳ, hỏi thày. Thày nói: Quay bếp về phương Chấn là Thiên Y phương, tự khắc sẽ khỏi bệnh. Lại hỏi tiếp: Vợ tôi đã nhiều tuổi, nằm liệt giường đã hơn nửa năm nay, nhiều ngày không ănh ước gì được. Bệnh rất nguy kịch, làm sao cứu được?”. Thày nói: “Dùng bếp mới hướng Chấn – Thiên Y để sắc thuốc cho uống,quá nửa tuần sẽ khỏi. (Sau đó) Người vợ xác nhận là đúng, nói: “Dùng bếp mới uống thuốc quả nhiên khỏi bệnh”. Bởi vậy, nếu người mạng Khảm bếp hướng Khôn là Tuyệt Mạng (Đông Nam theo Phong thủy Lạc Việt), vợ dễ mắc bệnh liên quan đến bụng (tỳ vị), nền quay bếp về hướng Thiên Y sẽ khỏi bệnh.
Anh chị em lưu ý:
Các sách có nguồn gốc từ bản văn chữ Hán để lại chỉ có phần ứng dụng và không có phần lý thuyết liên hệ giải thích. Tôi đưa lên đây để anh chị em tham khảo là chính. Anh chị em cũng ghi nhớ là: Bát trạch chỉ là một yếu tố tương tác trong phong thủy. Bản thân môn Phong thủy cũng chỉ là một trong nhiều yếu tố tương tác tạo nên cuộc sống. Cho nên không thể chỉ quay bếp sai hoặc đúng hướng là bệnh phát sinh hoặc tự khỏi được.
Tuy nhiên chúng ta phải khẳng định rằng:
Phong thủy là một trong những yếu tố quan trọng tương tác đến cuộc sống của chúng ta, nhưng không phải là yếu tố duy nhất.

III. CHẤN MẠNG ĐỊNH CỤC

Bát trạch Minh cảnh viết:
Chấn mạng đắc Nam phương Sanh khí lai lộ Táo khẩu hữu 5 tử. Đắc Diên niên hữu 4 tử. Đắc Khảm Thiên Y hữu 3 tử. Phục vì chỉ hữu nữ. Phạm Đoài tuyệt mạng tiên thương quý tử, nữ, ma đậu lao khái nhi tuyệt. Phạm Cấn lục sát thương quý tử hậu hửu 2 tử.
Lược dịch: 

Phàm ngườì phi cung Chấn, nếu đặt bếp hướng Nam có 5 con. Hướng Phúc Đức (Diên Niên) được 4 con. Hướng Thiên Y được 3 con. Đặt bếp hướng Phục vị khả năng sinh con một bề toàn nữ. Nhược bằng đặt bếp hướng Đoài phạm Tuyệt Mang, tổn hại con gái, dễ bị bệnh đậu, hoặc lao mà chết lúc còn nhỏ.

Sách viết:
HÔN NHƠN
Chấn mạng nghi phối Ly mạng thê, Tốn Khảm thứ kiết. Cầu hoá nghi an trang Tốn phương tắc việc thành. Phối Đoài thê hoặc Táo khẩu hướng Tây chủ: Thê ải (có hại cho vợ).


Lược dịch:

Người phi cung Chấn lấy vợ cung Ly, hoặc Tốn, Khảm thì tốt. Nếu dùng hướng Tốn làm nhà mọi việc hanh thông. Lấy vợ Đoài hoặc quay bếp về phương Đoài thì người vợ đau yếu, bệnh tật.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Chú ý:
Trên thực tế cho chúng ta thấy rằng: Nam Nữ yêu nhau cứ lấy vì đó là luật tương hợp Âm Dương. Trường hợp vợ chồng đồng Tây hoặc Đông Tứ cung thì rất thuận lợi cho việc làm phong thủy. Nhưng nếu không đống thuận Đông Tây tứ cung thì nhất thiết theo nguyên tắc Âm Thuận tùng Dương để thực hiện và lấy tuổi con để hóa giải xung khắc vợ chồng.
Anh chị em cũng lưu ý rằng: Xem Phong Thủy giỏi thì trên phải tường Thiên Văn – Huyền không Thái Ất, Dưới phỉa tỏ Địa lý – Khí mạch trong Âm trạch phải biết thì càng tốt, không thì phải giỏi Thủy Pháp (Sẽ học sau).
Sách viết:
TỬ TỨC
Chấn mạng Táo khẩu hướng Ly tắc hửu 5 tử, nhược lảo niên bất năng sanh giả, đắc hướng việc hữu thôi công 5 nhơn, hoặc nô bộc 5 nhơn, tặng đạo việc hữu tẩu đệ 5 nhơn, quang khả đại đắc tài, hựu khả hoán tử qui gia. 

Lược dịch: 
Người phi cung Chấn, bếp hướng Ly có 5 con.Về già sức khỏe suy yếu nhưng do được hướng nhà cũng có 5 người phụ việc. Khi có việc ốm đau, bệnh nặng hoặc chết cũng có năm người anh em bên cạnh giúp đỡ. Gia đình khá giả. Con cái đi xa cũng về.

Sách viết:
Tăng kiến nhứt lão ông vấn sư viết: Tử cửu các qui hữu hà pháp khả hạp kỳ ghi.
Sư vi chi cải Táo tọa, phẩn xí yểm kỳ nhơn chi tuyệt mạng phương hựu Táo khẩu triều Sanh khí dỉ chiêu tử quy gia. Thực chi tuần dư kỳ tử tại ngoại mộng kiến. Phong bào huyền khắc Táo thần ngữ viết: “Mộng thấy thần Táo bảo”. Nhử phụ hoán cấp hà bất tảo hoai. Kỳ tử vu qui. Dư phòng thử pháp vi nhơn hoán tử hươn gia tuy minh linh việc nghiệm dả.

Lược dịch:
Một ông lão gặp thày Phong thủy hỏi: Nếu chẳng may khi sắp mất, muốn các con ở xa về kịp thì làm thế nào?
Thày khuyên nên sửa lại hướng bếp quay về hướng Sinh khí, Nhà vệ sinh trấn phương Tuyệt Mang. Chỉ khoảng ngoại một tuần thì con ở bên ngoài sẽ mộng thấy thần nhân mách bảo “Phải về ngay!”. Con sẽ về. Đây l;à phương pháp hoán đổi để con ở xa về nhà rất hiệu nghiệm.
Sách viết:
Sự tăng vi nhơn hoán đào bộc (tớ trốn) việc dỉ Táo khẩu triệu chủ nhơn sanh khí phương hựu tương Táo toạ yểm chủ nhơn ngủ quỷ phương kỳ bộc tức lai. Cái dỉ ngủ quỷ tắc kỳ bộc bất đào hướng sanh khí tắc kỳ bộc lai dả.
Lược dịch:
Trường hợp đày tớ trong nhà bỏ việc thì chuyển Táo khẩu theo hướng Sinh Khí của chủ nhà và để bếp tọa tại phương Ngũ Quỷ thì đầy tớ sẽ quay về. Khi bếp trấn phương Ngũ Quỷ thì đày tớ không bỏ đi , hướng bếp Sinh Khí sẽ cón thêm người đến làm việc.
Lưu ý: 
Sách Bát trạch Minh Cảnh cho rằng bếp phải tọa hung phương. Điều này sai. Phong Thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Vì bếp cũng như nhà: Tọa tốt, sơn tốt và hướng tốt mới cực tốt. Điều này cũng phủ hợp với quan niệm của Dương trạch tam yếu.
Sách viết:
Hựu nhứt Chấn mạng nhơn bán lảo vô tử, bào châu tuế Tốn mạng minh linh thủ danh yểm tử, chi 3 tuế thời Thần phụ quận tọa ngử viết. Mạc danh yểm tử nghi cánh danh khánh thọ kỳ hậu lão chủ 100 tuế thượng kiên. Dỉ chấn mạng đắc Tốn Diên niên hữu tử nhi hữu thọ dả.
Nhơn vấn sư viết: Hài nhi sang đậu dạ khốc hà giả? Thử phân phòng Táo khẩu chi quyết dả, khả tương thử Đông mạng tử, ư phụ mẫu thân sàng chi Tốn phương xích cơ chi ngọa tắc trừ phân phòng chi hung nhi cập đắc kiết hựu thiêm tiểu Táo dỉ Táo khẩu hướng Tốn tiện nhủ mẫu thực chi trừ tạp Táo chỉ hung kỳ hậu quả an thế chi vi phụ mẫu giả. Bất tri kỳ pháp nhi ngộ tử dỉ (con) Thổ tả kinh cam chủ chứng, bi tai. Nhược luận Tây mạng hoài tắc nghi ư phụ mẫu thân sàng chi Tây phương ngọa tắc kiết, nhi Đông tắc hung dà. Táo khẩu việc nghi hướng Tây nhi hạp nhủ mẫu thực chi kiết. Dư thường khuyển hữu (bạn) nhơn: Y sỉ tri kỳ pháp dỉ trị tiểu nhi đậu sang chi loại thập hài cửu hượt (10 đứa chữa khỏi 9 đứa) bá vô nhứt thất. Thượng đế hảo sanh chi đức quảng nhơn thế tự thục chi mỹ. Tại Ngô thường ốc tích âm đức ư minh minh hậu nhơn tất xương, khởi tùng tăng thủ lợi lộc hồ tai.


Lược dịch:

Người mạng Chấn có con mạng Tốn, lên ba tuổi là con quí tử. Có người bảo: Đó là cách trường thọ. Nhân hỏi thầy, nói rằng:
Phàm hài nhi khóc đêm hoài thì phân táo lại và phòng thuộc Đông mạng cho con ở. Giường nằm của cha mẹ cũng quay về phương Tốn thì tránh hung tìm kiết. . Cửa bếp cũng quay về hướng Tốn thì tốt cho cả cha mẹ. Các bệnh khác như thổ ta, kinh phong, cam sài cũng hết. Tóm lại người Tây mạng giường năm thuộc Tây trạch tất kiết, ngược lại sẽ hung. Với cách này thì trị bệnh con trẻ rất hữu hiệu. Với người thường tu nhân tích đức việc rất nghiệm cho sự tốt đẹp.
Chú ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo. Phong Thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Bản thân phong thủy chỉ là một yếu tố tương tác hỗ trợ đắc lực cho sức khỏe, chứ không phải yếu tố duy nhất trừ mọi tai họa.
Sách viết:
TẬT BỆNH
Chấn mạng Táo khẩu phạm Đoài hướng tắc khai thấu, thổ huyết, thương phế, phúc cách chư chứng. Phạm Cấn tắc dương mai, lậu độc, tỳ vị lợi ngược đối khẩu ác thư (ung thư) Phạm Càn: Thương phế, thổ huyết, khái thấu. Phạm khôn. Ngược lợi, thang huyết, lậu bệnh.

Lược dịch:
Người Chấn cung, nhưng bếp quay phía Tây sẽ bị ho lao thổ huyết, bụng to chướng như bụng lơn (Heo). Táo khẩu cung Cấn sẽ bị các bệnh Phong tình như HIV, Giang mai…Khí tỳ vị uất, sinh ung thư. Táo khẩu hướng cung Càn, Khôn cũng vậy.
Chú ý: Người Đông trạch thì bếp phải trông trù. Tây trạch bếp Tây trù.
Sách viết:
TAI HỌA

Chấn mạng phạm Đoài phương, uý tử bất hiếu, tiên thương tử nữ, hậu thương trưởng tử, trưởng nữ, tiểu tỷ (cô) tuyệt tự, hựu khủng tự ải. Nhược nữ phạm thủ Chủ: Lao khái bất tư thực hoặc lai lộ kiết giả hữu cứu.
Phạm Cấn hửu Đông bấc huỳnh hủy (hoai) nhơn vu liêng nhơn quang phi. Thương quý tử, tiểu bộc.
Phạm Càn phương thiên thương lão phụ (cha) hậu thương trưởng tử, lão bộc hựu tư tự ải, tán tặc, hựu hỏa tai, bộc phi đào.
Phạm Khôn hửu Tây Nam phương huỳnh hủy nhơn toan tụng phá tài hựu thê bất hoà, lão mẫu bất an ninh, liêm thương mẫu thê, đại nữ, lão tỷ (Cô bà).

Lược dịch:
Người Chấn mạng nhà trạch Đoài con cái bất hiếu. Trước là con gái út bị, sau đến con trai và con gái lớn trở thành bà cô , không con cái, dẫn đến khủng hoảng tinh thần, yếm thế. Nếu nữ mạng phạm phải dễ bị lao hoặc phải đi tu mới cứu giải được. Nhược phạm Cấn hướng bị bệnh về mắt và tinh thần hoảng loạn. Hại cho con thứ và nô bộc nhỏ. Nhược phạm Càn trạch thì trước là hại cho cha, sau đến con trưởngm người quản gia đau buồn, tinh thân hoảng loạn. Nếu phạm Khôn trạch là phương hoàng họa thì trong nhà mắc lo toan kiện tụng , tán gia bại sản. Vợ chồng bất hòa, đàn bà trong nhà bệnh hoạn, ốm đau, tai họa.
ANH CHỊ EM LƯU Ý:
Trên đây là tài liệu tham khảo. Chúng ta cần biết rất rõ rằng: Bát trạch chỉ là một yếu tố tương tác trong Phong Thủy Lạc Việt và không phải là yếu tố duy nhất trong Phong Thủy, Và bản thân phong Thủy cũng không phải yếu tố tương tác duy nhất trong cuộc sống, nhưng là phương tiện hữu hiệu gây ảnh hưởng tốt xấu lên cuộc sống. Càng học về sau anh chị em sẽ càng biết rõ điều này .

IV. TỐN MẠNG ĐỊNH CỤC
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Tốn mạng đắc chánh Bắc Khảm sanh khí Táo hướng lai lộ hửu 5 tử, đắc Khảm Phân phòng tu khảm phương việc đồng. Đắc Đông hướng Chấn Diên niên hửu 4 tử. Đắc nam môn Ly Thiên y an trang hương hỏa. Táo hướng hửu 3 tử. Nhược Đông Nam Tốn phục vì hữu nữ. Phạm Đông bắc Cấn tuyệt mạng chủ: Sang độc, thương quý tử tuyệt tự. Phạm Đoài Lục sát chữ ế ma đậu thương quý tử, nữ nhi hữu 1 tử. Phạm Khôn ngủ quỷ thương trưởng tử, trưởng nữ nhi hửu 2 tử. Phạm Càn hoai hại thương trường tử nhi chung vô tử.
Lược dịch:
Người mạng Tốn xây nhà, làm bếp hướng Bắc được Sinh Khí có 5 con. Nhà và bếp hướng Bắc, hoặc phòng chủ tọa Bắc phương cũng vậy. Nếu hướng Đông được Phúc Đức có 4 con, hướng Nam được Thiên Y có 3 con.Nếu quay về hướng Đông Nam nhà toàn con gái. Phạm Đông Bắc Cấn là Tuyệt Mạng, rất xấu, con trai tuyệt tự.Phạm hướng Đoài là Lục Sát, chủ về bệnh tật cho con trai, con gái có một người mắc bệnh. Phạm hướng Khôn gặp Ngũ quỉ sẽ xấu cho trưởng nam và cả trưởng nữ.
Chú ý:
Trong đoạn trên nói đến Đông Nam và cung Khôn, chúng ta phải hiểu theo nguyên lý Hậu Thiên phối Hà Đồ: Khôn Đông Nam và Tốn Tây nam.
HÔN NHƠN
Tốn mạng nhơn nghi phối Khảm mạng thê. Ly Chấn thứ chi. Cầu hồn nghi an trang Chấn phương diệc thành phối Càn hoai hại thê nghi ải.
Lược dịch:
Người mạng Tốn lấy vợ Khảm cung là nhất. Nhì đến lấy vợ mạng Ly, Chấn. Muốn cầu hôn thuận lợi chuyển về phòng ở phương Chấn thì tốt. Phương Càn hại cho vợ.
Chú ý:
Cổ thư có nguồn gốc Hán cho rằng vợ chồng lấy nhau theo tuổi tốt xấu. Trong sách Bát Trạch Minh cảnh các đoạn nói về hôn nhân là một biến tướng nói trên. Minh triết Việt phủ nhận điều này – Yêu nhau cứ lấy – hạnh phúc vợ chồng tùy thuộc rất lớn với tuổi con út – Các cụ đã dậy: “Giàu con út, khó con út”.
TỬ TỨC
Tốn mạng Táo khẩu hướng Khảm hữu 5 tử. Hướng Tốn phục vì chỉ hữu nữ. Phạm Cấn thương quý tử tiểu bộc.

Lược dịch:
Người Tốn cung nếu bếp quay về hướng Bắc Khảm thì có 5 con, tốt. Nếu quay về hướng Tốn chỉ toàn con gái. Phạm hướng Cấn tổn thương cho con train và người làm công.
HỌA HẠI
Tốn mạng phạm Cấn tiên thương quý tử hậu tự bệnh yểu tuyệt. Phạm Đoài nhơn mạng quang phi thương quý tử, nữ Phạm Càn thương Lão phụ ải, thương trưởng tử bộc nhơn, đại tử bất hiếu, mẫu thê lao tữ thọ hào thê nhục, hựu Tây Bắc phương hữu đại đầu hầu hướng nhơn tuan tụng đắc thắng thương tài. Phạm Khôn mẫu thê thiếc tài, hựu mẫu tranh náo, phu thê bất hoà, thương mẫu thê cập đại tử, nữ, tức (con dâu) lão tỷ hựu thất tặc, tỷ bộc đào khứ cập hỏa tai.

Lược dịch:
Người cung Tốn hướng nhà Cấn trước tiên hai người con trai trong gia đình, yểu tử tuyệt mạng. Phạm hướng Đoài hại con gái yêu. Phạm hướng Càn hại người chủ gia, con trai trưởng, người quản gia, hoặc con trưởng bất hiếu. Người cung Tốn mà phạm hướng Tây Bắc là rất xấu, gọi là cách “Đại đầu nhân quan tụng” vì kiện cáo mà hao tài tốn của. Phạm cung Khôn thì mẹ và vợ hao tổn, mẹ chồng nàng dâu tranh chấp, hỗn loạn trong nhà. Vợ chồng khômng thuận ý. Nói chung nếu phạm hướng này thì trước hại cho mẹ, vợ cùng con gái hoặc dâu trưởng, người gia trở chứng khó tính, nô bộc bỏ đi, khi vận xấu đến có thể còn bị cháy nhà.
V. LY MẠNG ĐỊNH CỤC
Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:
Ly mạng đắc Chấn lại lô. Táo khẩu hữu 5 tử. Đắc Khảm Diên niên hữu 4 tử. Đắc Tốn Thiên Y hữu 2 tử. Phạm Khôn Lục sát nhi thương trưởng tử, nữ hậu hữu 1 tử. Nhược phạm tuyệt mạng phương Táo khẩu, lai lộ, tuy tử tai thiên lý chi ngoại (dâu con xa ngàn dậm) việc ứng thương tử (cùng ứng hai con) tuyệt tự nhi tự thân việc bất thọ (không sống già).
Lược dịch:
Người phi cung Ly, nhà và bếp quay hướng Chấn có 5 con. Hướng Bắc có 4 con. Hương Tốn có 2 con. Phạm hướng Khôn sẽ hại cho con trưởng. Con gái chỉ có 1 người. Nếu bếp và nhà quay về hướng Tuyệt Mang, con cái phải làm dâu nhà người xa ngàn dậm. Khi vận hạn đến hại cho con cái sẽ tuyệt tự và bản thân không sống lâu.
Chú ý:
Hướng Ly khí ứng dụng theo Bát trạch Lạc Việt (Tra sách Tàu sẽ là hướng Đoài). Các hướng Tốn và Không đều theo nguyên lý Phong Thủy Lạc Việt.
HÔN NHƠN.
Ly mạng phu nghi phối Chấn mạng thê, phối Tốn Khảm thứ kiết. Cầu hôn nghi an trang Khảm phương diệc thành (dễ thành).

Lược dịch:
Người phi cung Ly lấy vợ cung Chấn rất tốt. Thứ đến vợ cung Tốn, Khảm. Muốn việc cầu hôn được thuận lợi nên dọn về phòng tọa phương Khảm.
TỬ TỨC
Ly mạng Táo khẩu hướng Chấn hữu 3 tử. Hướng Càn tuyệt tự. Hướng Khảm 4 tử. Hướng Tốn 3 tử.
TẬT BỆNH
Ly mạng phạm Càn: Thương phế, khái thấu thổ huyết. Phạm Khôn, ngược lợi, khước thúng. Phạm Đoài, phế hư, khái thấu, đàm đa, tâm thống tổn mục. Phạm Cấn, tiểu trường ngư khẩu, dương mai, Dương loạn, ngược lợi. Trừ bệnh cụ y tiền pháp. (Chữa bệnh theo cách nói trước).

Lược dịch:
Người phi cung Ly phạm Càn phương cả bếp lẫn hướng dễ bị bệnh phổi, ho lao thổ huyết. Phạm Khôn khí uất, bệnh phù thũng. Phạm Khôn bị ho nhiều, hại phổi, hỏa khí hại tim làm mờ mắt. Phạn Cấn bệnh ở ruột, miệng, dương khí loạn, hay bị bệnh phong tình. Nhưng bệnh này bị thì khoa phong thủy nói trước cho biết cách trị (Tức là xem có phong thủy có phạm các điều trên thì sửa lại).
TAI HOẠ
Ly mạng phạm Càn tai tuyệt hữu Tây bất tranh dả phá đầu lưu huyết. Lai lộ kiết dả bất tử, thương phụ, cập trưởng tử, đại bộc. Nhược nữ mạng phạm chi thọ ông trách mạ lao dã (riềng tõi mắng chưỡi). Phạm Khôn tất náo phu thê bait lục, Tây Nam huỳnh diện lão phụ (bà) tấu tụng phá gia thương mẫu thê, đại tử, nữ, tức giá hung quái đa. Nhi Táo khẩu hựu hướng Khôn, cửu (lâu) tất tự hoạn độc dược phụ nhơn phạm chi thọ ông trách mạ hựu hửu khước thủng thống tật. Phạm Đoài thương mẫu thê thiếp, quý tự nữ, hựu thê thiếc tài, tiểu tỷ bộc đạo tài đào tẩu, thất tắc hựu hỏa tai. Phạm Cấn hửu Đông bấc huỳnh đồng (trẻ nhỏ) tranh tụng phá tài, hựu thương thiểu nữ, tử, tỳ bộc.

Lược dịch:Người cung Ly phạm Càn hướng thì tai nạn từ hướng Tây lại, có thể gây đổ máu. Nếu làm đường từ hướng Càn khó có con, con cái bất hiếu, trước tổn hại cho cha, sau là quản gia, thứ đến con trưởng. Nếu Nữ mạng phạm cung Càn thì suốt ngày bị cha, hoặc đàn ông mắng chửi vô cớ. Phạm hướng Khôn tất vợ chồng tranh cãi, làm ăn không khá nổi. Mẹ bị kiện cáo đến hao tài tốn của. Trong nhà mẹ, con gái lớn, gặp nhiều chuyện xấu có tính quái dị. Nếu hướng bếp quay về hướng Khôn thì không khác cho cha uống thuốc độc khiến bệnh tật phù thũng. Phạm hướng Đoài thì me, vợ, con gái đều hao tài, tỳ nữ bỏ trốn, gặp vận xui nhà dễ bị hỏa hoạn. Nếu phạm hướng Cấn thì vì trẻ con mà mất lòng người lớn sinh kiện tung hao tốn, con gái và nô bộc bị gặp nhiều chuyện không hay.
VI. KHÔN MẠNG ĐỊNH CỤC
Sách Bát Trạch Minh Cảnh viết:
Khôn mạng đắc Cấn sanh khí hữu 5 tử. Đắc Càn Diên niên hữu 4 tử. Đắc Đoài Thiên y hữu 3 tử. Đắc Khôn phục vì chỉ hữu nữ. Phạm Khảm tuyệt tự.
Hữu nhứt Khôn mạng khách dỉ Khảm phương nhất niên gia hoạn tử vong, giai thương hàng mạnh kinh, lợi đậu dỉ Khảm Thận dả. Hựu nhứt quả phụ Khôn mạng, Táo khẩu hứng Khảm 3 niên nội 2 tôn nhược thủy. Phạm Ly thương trung tử, nữ nhi hữu 2 tử. Phạm Chấn trưởng tử thương dỉ hậu cảnh tuyệt tử. PhạmTốn thương trưởng tử, trưởng nữ nhi hữu 2 tử.


Lược dịch:

Người cung Khôn làm nhà phương Cấn được Sinh khí, có 5 con. Hướng Càn là Phúc Đức có 4 con. Hướng Đoài được Thiên Y có 3 con. Nếu là hướng Khôn được Phục Vị chỉ sinh toàn con gái. Nếu phạm hướng Khảm sẽ tuyệt tự.
Nếu người cung Khôn phạm hướng Khảm chỉ sau một năm sẽ hoạn nạn mà tử vong. Gặp bệnh tật nặng khó chữa. nhất là những bệnh liên quan đến thận. Đàn bà cung Khôn là quả phụ rất kỵ phương Khảm. Nếu bếp quya hướng Khảm thì không quá ba năm có hai cháu chết vì ngạt nước. Nếu phạm cung Ly thì hại trung nữ, hai người. Phạm Chấn về già không có con trưởng nối dõi. Phạm Tốn thì hại trưởng nữ hai người.
HÔN NHƠN
Khôn mạng nghi phối Cấn mạng thê. Càn Đoài thứ kiết . Cầu hôn nhi an trang hướng Càn diệc tựu (dễ nên).

Lược dịch:
Người Khôn mạng lấy vợ Cấn là tốt nhất. Vợ mạng Càn Đoìa tốt nhì. Cầu hôn thì nên dọn phòng về hướng Càn sẽ thuận lợi.
TỬ TỨC
Khôn mạng nhơn Táo khẩu hướng Cấn sanh khí hữu 5 tử. Hướng Đoài Thiên y hữu 3 tử. Hướng Càn Diên niên 4 tử.

Lược dịch:
Người Khôn mạng có bếp hướng Cần Sinh Khí sinh 5 con. Hướng Đoài sinh 3 con. Hướng Càn Phúc Đức sinh 4 con.
TẬT BỆNH
Khôn mạng nam nữ phạm Ly hữu tâm thống, đàm hỏa thổ huyết đẳng chứng, dụng Đoài phương Thiên y lai lộ trừ chi. Phạm Chấn Tốn hữu ngược lợi sang độc đẳng chứng. Phạm Khảm tuyệt mạng, nam tắc thương hàn, ngược lợi, thận nhu, vô thọ, nữ tắc bế kinh, huyết băng, lao ế, trừ bệnh khả dụng Thiên y Đoài hướng 5 nhựt kiến hiệu, 11 nhựt khởi sàng, nội ngoại trừ căng. Dụng diên niên Càn hướng 25 nhựt kiến hiệu. Khởi trang tuy hữu 3 phân toàn tật nhi Diên niên hửu thọ dả. Táo hướng Thiên y tắc dụng lai lộ Diên niên phương, như lai lộ Thiên y tắc táo hướng nghi dụng Diên niên. Dư phòng thử.

Lược dịch:
Người Khôn mạng bất luận nam nữ, phạm hướng Ly sẽ bị hỏa bốc sinh chứng thổ huyết; phải dùng hướng Đoài xây đường dẫn vào nhà để trị. Phạm Chấn Tốn sẽ có hại và dễ bị ngộ độc. Phạm hướng Khảm là Tuyệt mạng, người nam dễ mắc bệnh Thương hàn, yếu thận và tổn thọ. Nữ kinh nguyệt không đều, băng huyết, yếu sức. Muốn trừ bệnh do phạm hướng Khảm gây ra dùng bếp hướng Đoài là Thiên y sẽ khỏi. Hoặc dùng hướng Càn là Phúc Đức cũng rất hiệu nghiệm. Xây nhà có ba hướng phạm gây bệnh tật, đều dùng hướng Phúc Đức, Thiên y làm hướng đi vào nhà và hướng bếp khắc chế. Hướng Bếp Thiên y thì đường đi lại hướng Diên niên, bằng Bếp hướng Diên niên thì đường đi lại hướng Thiên y tuổi nào cũng thế.

TAI HỌA
* Khôn mạng nhơn nhược phạm Khảm phương tắc hữu đầu hà phong ba nịch tử hậu thương trưởng tử tuyệt tự tiểu hài (con nít nhỏ) tắc mạng kinh phong bích yểu. Phạm Ly tắc hữu nhơn mạng, quang phi hựu tâm hỏa, tâm thống, trung tức ngổ nghịch, nhược hữu mẫu tắc vi trung nữ dỉ 1 gia chi niên tuế trưởng ấu phân trung, quý dả. Phạm Chấn hữu đắc thắng quang phi phá tài, trưởng tử bất hiếu, lảo bộc bất nhân. 

Lược dịch: Người Khôn mạng phạm Khảm hướng là cách ” Đầu Hà phong ba nịch tử”. Sau này con trưởng khó có con, trẻ con dễ bị bệnh kinh phong mà chết yểu. Phạm hướng Ly sẽ thiệt về người. là cách “Quang phi hựu tâm hỏa” – Sáng rực như lửa cháy trong tim. Tâm hỏa bốc, con trai thứ ngỗ nghịch. Nếu không phải mẹ thì con gái trưởng có người ra đi chỉ sau một năm. Phạm Chấn sẽ phá tán nhanh chóng, Con trưởng bất hiếu, Quản gia phản chủ,
* Hựu hữu thiếp Khôn mạng nhơn, thiêm tạo Chấn phân phòng 1 gian. Dư sư hướng y trở chi viết: Thử phương bất khả thiêm tạo, nhược tu tạo bất xuất 1 niên hậu; nhử phụ tất cáo nhử ngổ nghịch. Kỳ nhơn bất tín thả viết: Ngô phụ tố tánh ái ngã nhỉ thâm ác ngộ đệ, an hữu thử sự cảnh thiêm tạo chi, vị cập kỳ niên, kỳ phụ quã cáo chi phá tài.
Lược dịch:
Có người làm một phòng riêng phương Chấn cho vợ nhỏ phi cung Khôn ở. Thấy phong thủy chê hướng đó nói: Phương đó không ở được. Nếu cố tình ở thì không quá một năm sau thì cha cô ta sẽ tố cô ta phá tán hao tài. Người vợ nhỏ đó không tin nói: Cha tôi rất thương tôi, chỉ ghét em tôi. Nhưng sau một năm thì đúng là cha cô ta đã mắng người vợ nhỏ tội phá tán tài sản.
* Kỷ nhơn hựu vấn sự viết: Bắc phương đại ốc ngả dục cư trú hà như? Sư viết: Bắc phương chi ốc tuy mỹ, nhi nhữ Khôn mệnh, phạm Khảm phương vị chi tuyệt mạng. Nghi tiên ư Khôn phương hoặc Cấn phương xuất hướng cư số nguyệt nhiên hậu phương tấn thử đại ốc bất đáng vô tai vô họa nhi thả hữu phước thọ. Kỳ nhơn hựu bất thính toạ cư chi hậu quả niên dư nhi tử.
Lược dịch:Có người hỏi thầy: Tôi muốn làm nhà lớn hướng Bắc để ở được không? Thày nói: Bắc phương xây nhà dù lớn và đẹp thì cũng không thể ở hướng đó. Nhất là đối với người Khôn mạng như ông. Sẽ phạm vào Tuyệt Mạng. Sao không dùng Khôn phương hoăc Cấn Phương vừa không bị tai họa mà lại sống yên ổn thọ lâu. Người đó không nghe, cứ làm nha 2hướnngg Bắc, Quả nhiên sau đó chết.
* Hựu Khôn mạng tử tu Chấn phương ốc bị kỳ phu (Chồng nó) trách mạ bất dỉ. Sư hạp chiết chi nhi an. (Bị chồng đánh mắng không nghĩ nghe thầy sửa cải mà an).
Lược dịch:
Có người Khôn nữ mạng ở phòng hướng Chấn, thường bị chồng mắng chửi, sau nghe thấy chọn chỗ khác ở nên được bình an.
* Nhược Khôn mạng nam phạm Tốn phương. Lão mẫu thê thiếp thiết tài, tỷ bộc đào tẩu, thất tài hựu hỏa tai, thương mẫu thê hựu thương đại tử, đại thê, đại tức.
Lược dịch:
Nếu người Nam Khôn Mạng phạm hướng Tốn, Mẹ và vợ con đều thương tổn, nô bộc đào tẩu. Đã tán tài lại còn bị hỏa tai. Mẹ, vợ, con trưởng đều buồn.
VII. ĐOÀI MẠNG ĐỊNH CỤC

Sách Bát trạch Minh Cảnh viết:Đoài mạng đắc Càn phương lai lộ. Táo hướng hữu 5 tử.
Cấn 4 tử. Khôn 3 tử. Đoài chi hữu nữ.
Phạm Chấn tuyệt mạng tắc tữ ngược lợi kinh cam tuyệt tự.
Phạm Tốn thương trưởng tử, nữ nhi hữu 2 tử.
Phạm Khảm thương trung tử, nữ nhi chung vô tử.
Phạm Táo hướng hung chi nhi thế (hình thế) bất năng cải giả, tắc ngã bất thực chi, hoặc gia trung hữu hạp mạng giả thực chi (hướng Táo hung, không thể sửa đổi, thì chớ nên cam, hãy để người nào trong nhà hạp mạng làm chủ lấy).
Ngã tắc tạo thiêm tiểu Táo hoặc phong tư việc khả. Chỉ luận Táo khẩu hướng, 3 phương kiết vi nghiệm.


Lược dịch:

Người mệnh cung Đoài, nhà và bếp phương Càn có 5 con. Cấn 4 con, Khôn 3 con. Nếu hướng Đoài thì chỉ có 2 con gái. Nếu phạm hướng Chấn sẽ Tuyệt tự. Phạm Tốn hại trưởng nữ. Phạm Khảm hại trung nữ. Con gái trong nhà khó có con. Nếu bếp phạm hướng xấu mà không thể sửa được thì không nên cố giữ. Hãy đổi nhà cho người hạp mạng với bếp đó vào ở. Nếu không thì làm thêm một bếp nữa, hoặc trấn yểm lại trong nhà. Bếp có ba phương tốt dùng sẽ nghiệm.

<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

HÔN NHƠN
Đoài mạng nghi phối Càn mạng thê hữu 5 tử. Phối Cấn Khôn thứ kiết. Cầu hôn nghi an trang Cấn phương diệc thành (dễ thành).

TỬ TỨC
Đoài mạng Đắc Càn thê hữu 5 tử. Cấn 4 tử. Khôn 3 tử. Đoài chỉ hữu nữ. Phạm Chấn tuyệt tự.

TẬT BỆNH
Đoài mạng phạm Ly: Đoài hỏa, huyết quang đẳng chứng. Phạm Chấn tổn mục, ngược lợi trạch thượng yêu giai thủ túc.
Phạm Tốn ưu khổn thương mục, thương thụ túc. Phạm Khảm thương hàn ủy nhu đẳng chứng, thê tắc kinh bế tiểu sảng đẳng chứng. Giai nghi dụng Thiên y Diên niên phương dỉ giải trừ chi tắc kiết.
Lược dịch: Người mạng Đoài phạm hướng Ly, tất bị bệnh máu huyết. Phạm Chấn hại mắt, chân tay và lưng dễ mắc bệnh. Phạm Tốn mắt kém, chân tay yếu. Phạm Khảm hay mắc chứng thương hàn, vợ mắc bệnh phụ nữ. Phải dùng hướng Phúc Đức, Thiên y đặt làm hướng bếp để hóa giải.
TAI HỌA
Đoài mạng phạm Chấn thương trưởng tử, bộc trạch thương thủ túc, áp chỉ thiểu an (ngón tay).
Hữu nhứt Đoài mạng phú ông thiêm tạo Chấn phương đạt ốc số gian. 3 niên hậu 2 tôn giai tử tuyệt, dỉ hậu tự tah6n việc tử (sau chết trơ trội 1 mình).
Phạm Tốn hữu đông nam trưởng thân á phụ tuan tụng hoặc mẫu thân nào, tỉnh thê dâm hựu thương đại tử tổn mục trạch thương thủ túc.
Phạm Ly chủ thất tài hỏa tai, thê thiếp thiếc tài, tỷ bộc đào tẩu hửu thê thiểu nảo thương phụ mẫu, trung nữ tỷ.
Phạm Khảm thường hữu đắc thắng quan phi (hay có sự thị phi đến quan làng) phá tài thủy tai, thương trung tử, nữ bộc, nhược trung tử mạng hạp trạch kiết phương tắc thương quý tử. (có hại cho con giữa bằng con giữa hạp mạng ắt hại con út)
Tương kiến nhứt đoản mạng phụ phạm Khảm phương tắc hữu huyết băng chi tật, trung tử nịch tữ (con giữa chết chìm).
Lược dịch:
Người cung Đoài phạm hướng Chấn hại con trường nam, người tâm phúc trong nhà không điều khiển được. Nếu người mạng Đoài, dùng Chấn phương xây phòng để ở thì ba năm sau con cháu chết hai người. Khi chết chỉ có một mình, không con cháu thăm viếng.
Phạm Tốn làm hại cho cha mẹ buồn lo. Vợ dâm loạn, con lớn hư mắt và chân tay.
Phạm Ly chủ tán tài, hỏa tai, thê thiếp hao tổn, người làm chểnh mảng, vợ buồn, cha mẹ lo lắng. Chết con gái giữa.
Phạm Khảm có chuyên thị phi quan tụng liên quan đến làng xóm. lụt lội làm tán tài. Con trai giữa gặp nạn, đầy tớ gái hoặc con giữa gặp chuyện buồn, nếu họ hạp mạng – với phương Khảm – thì hại con út.
Đã có một trường hợp vợ chết do băng huyết vì phạm phương Khảm, con gái giữa chết đuối.
Anh chị em thân mến.
Theo nội dung của Bát trạch Minh Cảnh mà tôi lược dịch ở trên thì chúng ta có cảm giác rằng: Bát trạch Minh cảnh đưa ra vấn đề có vẻ như phương pháp Bát trạch chỉ là yếu tố duy nhất quyết định số phận con người. Thí dụ như câu: “Phạm Ly chủ thất tài hỏa tai, thê thiếp thiếc tài, tỷ bộc đào tẩu hửu thê thiểu nảo thương phụ mẫu, trung nữ tỷ”.
Thực tế đã không xảy ra như vậy. Bởi vì Bát trạch không phải yếu tố duy nhất quyết định hiện tương. Nhưng đó là những yếu tố mà Bát trạch gây ảnh hưởng xấu hoặc tốt.
Anh chị em chú ý điều này.



<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Các bài viết trên blog được mình sưu tầm, tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều bài viết không tìm lại được tác giả, nếu có bất cứ thắc mắc, khiếu lại về bản quyền bài viết vui lòng liên hệ với mình theo số ĐT: 0909399961 , mình rất vui được tiếp nhận các thông tin phản hồi từ các bạn

Chi tiết về dịch vụ xin liên hệ:
CÔNG TY TNHH ĐỊNH GIÁ BẾN THÀNH – HÀ NỘI.
Trụ sở chính: Số 236 đường Cao Thắng, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Văn phòng: 781/C2 Lê Hồng Phong, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Mã số thuế: 0314521370.
Điện thoại: 0909399961Email: ngoctuan.tdg@gmail.com.
Website: //thamdinh.com.vn

Dịch Vụ của chúng tôi:
Thẩm định giá bất động sản
Thẩm định giá động Sản
Thẩm định giá máy móc thiết bị
Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định giá tri doanh nghiệp
Thẩm Định Giá tài sản vô hình
Thẩm định giá dự toán gói thầu
Thẩm Định Giá Dự toán, dự án xây dựng
Thẩm định giá trang thiết bị y tế
Thẩm định giá Xử lý nợ
Thẩm định giá nhà xưởng
Thẩm định giá đầu tư
Thẩm định giá tài chính định cư
Thẩm định giá tài chính du lịch
Thẩm định giá tài chính du học
Rate this post
Zalo
Phone